DU KÝ

ĐI TẦU

Người mình ngày xưa để chỉ việc đi ra thế giới, thường chỉ nói gọn ghẽ: “đi Tây đi Tàu.” Thì ra cái rộng lớn của thế giới trong con mắt của người Việt Nam trước đây đơn giản thật. Chỉ cần hai nước Trung Hoa và Pháp, không Tàu thì Tây, là đủ. Ở Việt Nam mà đi Tây thì đương nhiên phải đi về hướng Tây, còn đi Tàu thì lên hướng Bắc. Nhưng nếu đã định cư ở Mỹ thì mọi chuyện phương hướng lại lộn tùng phèo. Muốn đi Tây thì bay về hướng Ðông, qua Ðại Tây Dương, còn đi Tàu, xứ sở lớn nhất ở phương Ðông thì lại phải bay về phía Tây xuyên qua Thái Bình Dương.

Tuân theo truyền thống đi ra thế giới ấy của người Việt Nam, tôi đã đi Tây cách đây mấy năm, và bây giờ thì đi Tàu. Dĩ nhiên là đi theo tour du lịch, chứ xứ đó mình làm gì có bà con bạn bè, làm sao dám tự đi du lịch một mình. Xứ sở thì rộng lớn, lại chẳng biết tiếng Tàu, làm sao xoay xở.

Nước Tàu suốt ba thập niên đóng cửa làm cách mạng, nhìn thế giới với con mắt gờm gờm. Chuyện đi du lịch Tàu mới có rầm rộ khoảng một hai thập kỷ lại đây sau thời nước này mở cửa, chứ trước kia ai mà nghĩ đến chuyện này. Người Việt Nam lại càng không nghĩ đến, vì cảm thấy mình biết về Tàu nhiều quá rồi: chỗ nào trên đất nước Việt Nam mà chẳng có mấy chú ba Tàu đẩy xe mì tới, chỗ nào lại chẳng có chùa Tàu, người lớn trẻ con ai mà chẳng biết truyện Tam Quốc, Tây Du, Thuyết Ðường, Thủy Hử... Truyện Tàu, kinh sách Tàu xây dựng tâm hồn và nhân cách, thi phú Tàu nuôi dưỡng đời sống tình cảm cho biết bao thế hệ người Việt từ xưa đến nay. Mình biết Tàu từ những thứ trừu tượng như triết học, văn chương đến cái cụ thể như thuốc men, thức ăn thức uống và cả ngôn ngữ nói và viết, biết nhiều đến độ khi nghĩ đến chuyện du lịch thế giới thì tự nhiên đưa đầu óc đến những nước Âu Mỹ vì ở đó mới nhiều cái lạ và văn minh tiến bộ mà mình chưa biết. Chưa biết mới đáng đi đến cho biết, chứ biết rồi thì đến làm gì?

Nhưng khi du lịch Trung Quốc được khai thác một cách quy mô thì thế giới bắt đầu chú ý đến cái tài nguyên vô cùng dồi dào phong phú của ngành này tại đây: một nền văn minh vào hạng cổ nhất thế giới. Ðiều đặc biệt là cái cổ ở đây không phải là cái đã hoàn toàn chết kiểu Kim Tự Tháp ở Ai Cập, trái lại dân tộc tạo ra nền văn minh ấy vẫn còn đang sống và tiếp tục tạo dựng nền văn hóa trên những gì tổ tiên của họ đã để lại từ ngàn xưa. Và người Việt Nam cũng khám phá ra rằng cái nước Tàu quen thuộc và có vẻ cổ lổ sĩ ấy thực ra là một kho tàng vô cùng giàu có để đến xem, và xem một cách thú vị, vì khác với người Tây phương, người mình có sẵn rất nhiều kiến thức về nước Tàu. Ngày xưa có lần nói chuyện với một ông thầy dạy nhạc, tôi nói nhạc lý thì chỉ cần cho người muốn thành nhạc sĩ, chứ đối với người chỉ nghe nhạc thôi thì chẳng cần học cũng vẫn thưởng thức được cái hay của nhạc như thường. Ông thầy cười, nói rằng vì anh chưa hiểu nhạc lý thì nói vậy, chứ hiểu rồi thì sự thưởng thức của anh sẽ được nâng lên một trình độ khác hẳn. Tôi ậm ừ, lòng không tin lắm lời nói đó, vì không hiểu nhạc lý tôi nghĩ là tôi vẫn thưởng thức một cách rất trọn vẹn tiếng hát Thái Thanh trong bài Tình hoài hương, Tiếng sáo Thiên Thai, hay giàn giao hưởng Tây phương hòa tấu bài Le beau Danube bleu, có sao đâu! Ăn thua mình cảm nhận cái hay là được, cần gì phải “hiểu,” có khi hiểu nhiều quá lại làm giảm cái hay đi là đàng khác. Mãi lâu về sau, do những cơ duyên run rủi để hiểu biết nhiều hơn, tôi nhận là ông thầy nhạc nói đúng. Và khi đi đến Trung Quốc với một đám du khách người Mỹ thuộc nhiều nguồn gốc khác nhau, tôi thấy cách thưởng thức mọi cái ở đây của tôi thuận lợi hơn những người Mỹ trắng và người gốc Ấn Ðộ rất nhiều nhờ ở sự hiểu biết từ trước của tôi về văn hóa xứ này. Chưa đến chùa Hàn San ở Tô Châu mà tôi có cảm tưởng đã quen với nó, thậm chí đã nhiều lần nghe tiếng chuông nửa đêm của nó, bây giờ tôi như sắp tái ngộ một người bạn cố tri, trong khi đối với những người bạn Mỹ thì đó cũng chỉ là một ngôi chùa hầu như vô danh trong vô số ngôi chùa khác trên đất Trung Hoa này thôi.


Chuyến bay

Bay từ Los Angeles lên San Francisco để đổi sang chuyến bay khác tới Trung Hoa, người ta đã gặp “nước Tàu” ngay khi làm thủ tục ở Air China. Cả đời mình đã gặp không biết bao nhiêu là người Tàu, hồi nhỏ tôi ở ngay với người Tàu trong các phố của Hội An, có rất nhiều đứa bạn học người Tàu, lớn lên vào ra Chợ Lớn biết bao nhiêu lần, nhưng mình vẫn thấy họ là một phần Việt Nam. Bây giờ đứng trước quầy vé của Air China mà tôi biết là hãng máy bay của Trung Hoa lục địa, tự nhiên thái độ của tôi đổi khác: tôi đang tiếp xúc trực tiếp với Trung Cộng, tôi thấy hình như trong người mình đang trỗi lên một thứ phản ứng đối phó. Ðây là Tàu thiệt, không phải Tàu Chợ Lớn, đại diện cho cái nước lớn phía Bắc đã bao đời xâm lăng và muốn đồng hóa Việt Nam, tệ hơn nữa, đây lại là cộng sản, một trong những thứ cộng sản tệ hại nhất trên thế giới đã làm bao nhiêu trò kỳ quặc trên nước họ và lại dạy dỗ cho thằng đàn em là cộng sản Việt Nam cái trò đấu tố dã man cùng vô số các “bài học” khác. Hình như tôi nhìn các cô tiếp viên mặc áo đỏ không thiện cảm lắm, có thể với một con mắt gờm gờm, nhưng các cô vẫn không thấy gì, vẫn tiếp tôi một cách vui vẻ như bao người khác, và làm thủ tục một cách nhanh chóng. Hình như sau đó tôi thấy ngượng với chính mình, thấy hơi hố khi đưa tình cảm của mình tới một chỗ quá đáng, mọi chuyện trên thế giới đã thay đổi quá nhiều rồi trong khi mình cứ ngồi nhà và ôm mãi những định kiến cũ. Tuy nhiên tôi cũng nhủ thầm: đấy chỉ mới là các cô tiếp viên thôi, các cô được huấn luyện để cư xử theo nếp văn minh, chứ chính nước Tàu thì vẫn chưa biết thế nào.

Khi vào ngồi trên chiếc Boeing 747 của Air China, thì chỉ vì chiếc báy bay này là máy bay Mỹ, chứ nếu do Tàu chế tạo thì tôi đã có cảm tưởng đã vào nước Tàu rồi. Quanh tôi toàn người Tàu, phi hành đoàn, nam nữ tiếp viên, tất cả các dòng chữ trên chiếc Boeing đều viết bằng hai thứ tiếng, Anh và Hán tự. Các nước cộng sản trong quá khứ khi ra với thế giới thì thường dốc sức biểu diễn những cái hay đẹp nhất của họ để tuyên truyền sự “ưu việt” của chế độ. Ở trong nước dân tình càng đói khổ thì các lãnh tụ càng có nhu cầu lấp liếm đi bằng những cái hào nhoáng giả dối đối với thế giới bên ngoài. Ngày xưa nước cộng sản nào cũng cùng một sách như vậy, vì thế tôi tưởng tượng chuyến bay Air China này cũng là một dịp quá tốt để tuyên truyền, nó phải mang trong nó tất cả sự chu đáo, hay ho, ngon lành có thể có được để trình bày lòng hãnh diện về một nước Tàu cộng sản. Nhưng không, không có một cái gì tương tự, nó chỉ là một chuyến bay bình thường với một sự cố gắng theo kịp tiêu chuẩn quốc tế về hàng không dân sự nhưng còn có vẻ hụt hơi. Tôi nghĩ thời còn khối cộng sản khép kín, lâu lâu biểu diễn một lần thì còn sức mà tạo ra một vài sự hào nhoáng giả tạo, chứ làm ăn thường xuyên với thế giới văn minh rồi thì mọi cái đều phải hiện hình rõ bản chất của mình thôi. Một nước ngập chìm trong sự cai trị độc đoán và lạc hậu, với một não trạng coi thiên hạ chỉ có ta là nhất còn lại toàn những thứ “cọp giấy”; loay hoay mấy mươi năm với một dân số ngày càng tăng khủng khiếp, với những lý thuyết công nghiệp hóa đất nước nhanh, mạnh bằng các phương pháp hoang tưởng nhà quê; đi chưa vững đã đòi nhảy, đòi vọt; đưa trí tuệ thụt lùi về thời thượng và trung cổ bằng các câu thần chú đọc từ các quyển sách đỏ; luôn luôn xáo trộn với âm mưu này đối phó âm mưu kia; người dân cả đời chỉ thụ động “nhờ ơn đảng”... một đất nước như thế mà tổ chức cho ra hồn một hãng máy bay hành khách theo tiêu chuẩn văn minh không phải là chuyện dễ dàng. Phải học, dĩ nhiên, nhưng gột rửa những thói quen giao tiếp theo lối cán bộ – dân chúng để biến thành người bán và khách hàng một cách cao cấp thì không thể một sớm một chiều mà xong được. Quyết tâm chuyển hóa thì cũng vài thế hệ.

Nhớ hồi mới từ trại cải tạo trở về, lần đầu tiên sử dụng máy bay Hàng Không Việt Nam từ Sài Gòn đi Hà Nội năm 1989, tôi không khỏi khó chịu vì cung cách tiếp đãi của mấy chị tiếp viên hãng này. Nó phảng phất cung cách của nhân viên bán hàng trong mậu dịch quốc doanh, nó hơi vênh váo cửa quyền, mấy chị đó tự coi mình là người đang ban phát một cái gì chứ không phải đang làm một công việc có tính cách phục vụ người khác. Quốc doanh thì thế thôi, quen rồi, người khác phải quỵ lụy mình chứ mình việc gì phải chìu chuộng người khác. Có thể vào thời điểm ấy người ta còn thấy đường đường là nhân viên nhà nước mà phải ăn nói nhỏ nhẹ, lễ độ với người dân thì ngượng lắm, nhục lắm. Khách hàng là cái gì mà phải chìu, nhà nước tạo phương tiện cho họ hưởng là may mắn cho họ rồi, dù là dân phải trả tiền. Bao nhiêu năm trên đất Bắc có bao giờ có món máy bay dân dụng như thế này đâu, bây giờ được bay bổng nhanh chóng, không cám ơn đảng và nhà nước thì thôi, nhân viên nhà nước sao lại phải đi săn sóc, chìu chuộng? Tôi nghĩ não trạng của đám Hàng Không Việt Nam năm đó đúng là như vậy, từ người làm ở phòng bán vé cho đến tiếp viên trên máy bay, luôn luôn mang thái độ thi thố ân huệ cho dân chúng. Họ là sản phẩm của chế độ, tự nhiên thôi.

Cho nên chờ đợi một một chuyến bay tuyệt vời của Air China là sai. Chuyện làm ăn lâu dài không thể là những dịp biểu diễn được, biểu diễn hoài kham sao nổi! Phải hiện nguyên hình chân thật của mình thôi, và phải học hỏi và thay đổi liên tục. Thái độ của tiếp viên rất tốt, các cô hầu hết xinh đẹp, lễ độ và làm vui lòng khách, nhưng rõ ràng là không “pro” trong công việc như người Tây phương. Tiếp viên các hãng hàng không Mỹ chẳng hạn, ý thức trách nhiệm của mình đối với khách một cách rõ rệt, và làm rất tận tụy tất cả những gì mình có thể, không cần điệu bộ kiểu cách gì cả. Trong khi những cô Trung Hoa yêu kiều cũng làm đầy đủ nhiệm vụ tiếp viên (không đến nỗi mặt lạnh tanh “làm đầy đủ nhiệm vụ trên giao phó” như một cán bộ đảng) nhưng hình như không hoặc chưa sống thật trong vai trò của mình, không tạo được cảm tưởng tin cậy nơi khách. Hình như vào thế giới văn minh họ chỉ mới học được cái kỹ thuật của công việc mà chưa thấm nhuần được tinh thần và lương tâm của những nghề nghiệp mới trước kia không có trong xã hội của họ. Các cô gái này không bao giờ khinh khỉnh với khách như những cô Hàng Không Việt Nam thời điểm 1989 – họ đã qua thời kỳ đó lâu rồi, nhưng họ hành nghề ít nhiều như đóng một vở kịch, trong thâm tâm chưa có sự yêu mến thật sự công việc của mình. Một thời gian dài rất khốc liệt, đất nước họ cấm đoán tất cả những yêu mến như thế, để chỉ yêu và ghét theo chỉ thị của đảng, bây giờ tạo lại chất men thật của đời sống thì không chỉ một thời gian ngắn mà chất men có thể dậy được. Vả lại, bây giờ cái đảng vẫn còn nguyên đó, nó chỉ mới nới lỏng dây trói thôi chứ đã mở trói hẳn cho người dân đâu. Và Air China là một hãng quốc doanh!

Người Á châu phải học rất nhiều cách tổ chức theo khoa học của người Tây phương. Cứ nhìn một chuyến bay điều hành hoàn toàn bởi người Trung Hoa thì thấy sự khác biệt giữa Ðông và Tây. Nếu nghệ thuật uống trà một cách tinh tế hoặc phương pháp tập tành dưỡng sinh sao cho khỏe mạnh sống lâu là những đặc điểm của nền văn hóa Trung Hoa thì việc tổ chức một hãng máy bay với những chuyến bay xuyên lục địa là sản phẩm hoàn toàn Tây phương, và khi người Ðông phương muốn làm việc ấy thì phải học, và một khi học một cái gì không thuộc truyền thống của mình thì lâu thuộc bài lắm. Việc đẩy xe thức ăn đi mời khách dùng bữa vẫn còn những luộm thuộm, không quan trọng lắm, nhưng tinh ý một chút thì thấy ngay; vào nhà vệ sinh sau khi đóng cửa cài then thì thông thường một cái đèn sáng hơn phải tự động bật lên, đằng này phòng vẫn chỉ một ánh đèn mờ mờ; màn ảnh lớn của 747 mà suốt chuyến bay 11 tiếng đồng hồ chiếu bao nhiêu là phim của Tàu, của Mỹ mà trước sau chỉ một màu đen trắng... Những cái không vừa ý lặt vặt như vậy đối với một hãng Tây phương thì không có quyền xảy ra, nhưng đối với Air China thì vẫn xảy ra. Vẫn biết là họ sẽ sửa chữa cái đèn, cái màn ảnh, nhưng vấn đề là họ cứ để đấy, không biết lúc nào thì bắt tay làm, và họ thấy những khiếm khuyết như thế trên một hay nhiều chuyến bay cũng không quan trọng gì. Ðó là do thói quen ban phát cái gì thì dân được hưởng cái đó của đảng cộng sản; cũng có thể đó là cung cách luộm thuộm, đại khái, thiếu chính xác như là một bệnh di truyền nhiều đời trong máu của người Trung Hoa. Có lẽ cả hai. Sự toàn trị của đảng cộng sản trên đất Trung Hoa cho tới nay chưa dài lắm, nhưng vì tính chất khốc liệt của nó, một số thuộc tính cộng sản cũng có thể đã nhiễm thành một bản tính thứ hai của con người Trung Hoa rồi. Những người đã bay với China Airlines của Ðài Loan và với Air China của Trung Cộng thì thấy rất rõ sự khác biệt của hai mẫu người Trung Hoa, một bên như là những người ở tỉnh thành đã lâu đời với một bên là những người nhà quê mới tập nhiễm thói quen của đô thị.


Bắc Kinh

Tôi luôn luôn cảm động khi mình bước chân đến một đất mới trước giờ chưa hề biết. Máy bay đáp xuống Bắc Kinh vào buổi chiều giữa tháng Tư nắng ráo, tôi nhìn đất, nhìn cây bồi hồi tưởng nhớ đến bao trang sử đã qua của xứ này có liên quan đến Việt Nam, hoặc như tôi biết qua các “truyện Tàu”. Quang cảnh phi trường không gây ấn tượng gì đặc biệt, ngoài việc máy bay đậu ở giữa sân, hành khách phải lên xe buýt chở vào phi cảng. Tôi hơi ngạc nhiên: đây có thể là một trong những toán du khách quan trọng đối với Trung Quốc ngày nay – đến từ Mỹ, một nước đang đưa nước Tàu đến chỗ giàu mạnh, trong đó lượng đô-la của chính du khách Mỹ đến thăm xứ sở này hẳn phải chiếm một phần đáng kể, thế mà họ được đón tiếp khá luộm thuộm, không có được một “ống” tiếp nhận riêng để đi thẳng vào phi cảng cho thuận tiện hơn. Chiếc xe bus chạy quanh co giữa sân nắng chang chang và bỏ khách xuống ở một cái cửa ngách nào đó, từ đó khách lếnh thếch kéo nhau đi vào không một người chỉ dẫn, chỉ dựa vào những tấm biển chỉ đường mà đến dần khu lấy hành lý. Cảm tưởng đầu tiên của tôi là: phi cảng tồi quá. Sự đón tiếp này không xứng đáng với một nước có ngành du lịch đang nổi tiếng và số lượng du khách đang phát triển lớn lao. Con rồng Trung Quốc quá kềnh càng, không trở mình và cất cánh dễ dàng như những con rồng nhỏ khác ở Á châu. Kềnh càng nhất có lẽ vẫn là di sản của mấy mươi năm cộng sản bây giờ thật khó mà gột rửa hết được một cách nhanh chóng. Phi cảng xây từ lâu rõ ràng không thể đáp ứng với nhu cầu to lớn của ngày hôm nay, chưa nói đến khía cạnh mỹ thuật hầu như không có gì. Tuy nhiên cách tổ chức và điều hành thì khá tốt: lấy hành lý nhanh chóng, qua thủ tục công an và hải quan lẹ làng, nhân viên hãng du lịch đón tiếp đầy đủ và thân tình. Một điều đáng để ý: nhân viên làm việc, từ trên máy bay đến phi trường – công an, hải quan, du lịch - đều thuộc thành phần rất trẻ. Ðây là một sự cố tình rất khéo: giới trẻ hầu như không mang nặng những căn bệnh của quá khứ cộng sản là vừa ngu dốt vừa cửa quyền, lại được đào tạo theo nếp văn minh mới, thạo tiếng Anh, chính họ thấy không xa lạ với những người đến từ phương Tây.

Bắt đầu từ khi được nhân viên hãng du lịch mời lên xe bus để về khách sạn, chúng tôi không phải lo gì về những hành lý nặng của mình nữa. Các va ly lớn của cả nhóm được tập trung chở bằng một xe riêng, sẽ được đưa tận phòng cho từng người khách. Trong tương lai khi di chuyển đến những địa phương khác, khách cũng chỉ việc để các va ly ấy ngoài cửa phòng mình trước khi đi, sẽ có người lo lấy đi gửi máy bay hoặc xếp vào thùng xe bus, và sẽ giao ngay tại cửa phòng khách sạn sắp đến của mình. Sự chu đáo này là một ưu điểm rất lớn của tour du lịch, giúp khách đi chơi thoải mái, thích nhất là không bao giờ phải lo gửi hành lý tại các phi trường.

Xe vào thành phố Bắc Kinh trong ánh chiều tà sau gần một giờ chạy trên những xa lộ hai bên cây lá xanh tươi đầu xuân. Giống một số các thành phố thủ đô trên thế giới, Bắc Kinh không mang vẻ gì sinh động, xuất sắc. Một thế giới của công chức, của quan quyền. Cái khệnh khạng quan liêu của quyền lực giết chết sự tươi trẻ của một cuộc sống hồn nhiên. Dĩ nhiên những dấu vết quyền lực của quá khứ còn tồn tại cho đến ngày nay tại đây là điểm chính thu hút du lịch của thế giới. Trung Hoa là một nước lớn, có nền văn minh rất sớm, tổ chức triều đình phong kiến tại đây là một mẫu mực hoàn chỉnh nhất thế giới.

Ngày đầu tiên trên đất Tàu tôi thức dậy từ 5 giờ sáng, sau một đêm ngủ mê mệt vì chuyến bay dài, mặc dù có lúc thức giấc vì thay đổi giờ. Qua cửa sổ nhìn xuống phố thấy còn vắng tanh, bên kia đường có một bảng hiệu đề chữ Carefour to tướng, tôi ngờ ngợ, mãi một lúc sau mới nhớ đã nhìn thấy cái này ở Paris. Ðó là tên một hệ thống siêu thị lớn của Pháp, không ngờ họ cũng qua đến xứ này mở hiệu làm ăn. Nhưng rồi lại nhận ra một hình ảnh quá quen thuộc khác ngay cạnh, đó là hiệu gà chiên KFC của Mỹ. Hiện tượng toàn cầu hóa đang bày ra ngay trước mắt. Nhưng tôi đến đây để xem nước Tàu chứ không cần các thương hiệu của thế giới, nên vội tập thể dục và tắm rửa để còn đi ăn sáng, trước khi bắt đầu chương trình thăm viếng ngày hôm nay.

Nhóm du lịch của tour chúng tôi ăn sáng miễn phí tại tất cả các khách sạn mà mình sẽ ở. Phòng ăn sáng của New Century Hotel ở Bắc Kinh rất rộng rãi và lịch sự, ăn theo lối buffet – nói nôm na là ăn bao bụng – thức ăn khá đa dạng, từ các món Tây phương như trứng chiên, các loại thịt hun khói, cereal, sữa và nước trái cây tươi v.v... đến các món Tàu như cơm chiên, mì xào, bánh bao, cháo trắng ăn với củ cải hay hột vịt muối... Ðối với du khách người Mỹ gốc Việt hay gốc Hoa, thức ăn đông tây hỗn hợp như thế này rất tiện, vì thứ nào cũng là “gu” của mình cả. Ngồi trong phòng ăn này mới thấy nước Tàu dư thừa người, đội ngũ các cô “phục vụ” đông vô số kể, hầu như mỗi bàn một người, các cô chăm lo cho khách từng li từng tí, một cái đĩa vừa ăn xong là vội dọn đi, tách cà phê vừa vơi một chút là vội châm thêm. Hình như các cô không trông chờ tiền “tip” lắm, nhưng nhận được một đô la tiền tip của khách, các cô rất mừng rỡ và cảm động.

Thiên An Môn là một địa điểm có lẽ là nhạy cảm nhất nước Tàu bây giờ. Từ sau vụ thảm sát năm 1989, đó không những nổi tiếng vì là quảng trường lớn nhất thế giới – chỉ riêng khoảng sân ngay trước cổng Tử Cấm Thành đã có thể chứa một triệu người thong thả – mà còn là một thiên anh hùng ca về ước vọng tự do của thanh niên Trung Hoa. Từ thượng cổ, các hoàng đế nước Tàu – hoàng đế đây là chỉ chung tầng lớp cai trị – luôn luôn coi con dân như kiến cỏ, cho đến độ ông Mạnh Tử có gào lên: “Dân là quý lắm!” (Dân vi quý) nhưng cũng chẳng ăn thua gì. Không vừa lòng cấp lãnh đạo là bị trừng phạt vô cùng thảm khốc, chế độ nào trên đất nước Trung Hoa cũng như vậy, có lẽ chỉ trừ chế độ Ðài Loan vì ra một đảo nhỏ nên dễ bề dân chủ hóa hơn. Chúng tôi đi dọc theo con đường song song với chiều dài của Thiên An Môn để đến Tử Cấm Thành, thấy công an đứng dài dài, anh nào anh nấy đứng nghiêm, quay lưng vào quảng trường, mắt nhìn thẳng, nhưng chắc mỗi người phụ trách một đoạn có gì lộn xộn là can thiệp ngay. Tôi đi sát cô tour guide, định hỏi về địa điểm chính xác của cuộc thảm sát năm 1989, nhưng mới nghe tới mấy tiếng students với demonstration là cô đã xanh mặt, xua tay lia lịa: “Xin ông đừng hỏi những cái ấy, và cũng đừng nói chuyện riêng với tôi ở đây, nguy hiểm lắm!” Cảm tưởng thoải mái tôi có từ khi đến nước Tàu chiều hôm qua đến nay bỗng ngưng lại. Bề mặt cuộc sống ở đây hiện nay là một tấn kịch chăng? Những mở cửa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa, tự do làm ăn kinh doanh... của xứ này phải chăng chỉ là những lớp sóng trôi nổi trên mặt một đại dương vẫn giữ nguyên tính cách độc ác của sự toàn trị, khối nước bên dưới những làn sóng có vẻ lả lướt tươi đẹp phải chăng vẫn giữ một màu đen kịt như... mực tàu? Một du khách nước ngoài mà lại không có quyền hỏi người hướng dẫn du lịch về một sự kiện lịch sử của đất nước mình đến thăm thì thật là quá quắt, tình hình ấy cho thấy về một phương diện nào đó sự áp bức của chế độ lên người dân quả còn rất nặng nề. Người hướng dẫn du lịch tha hồ nói về các triều đại Trung Hoa ngày trước, về các di tích, các thổ sản, tha hồ pha trò cho khách cười..., nhưng có một ranh giới cấm kỵ mà ngay cả trong câu chuyện riêng tư cũng không được vượt qua. Hiện nay trên thế giới có lẽ tình trạng đó chỉ còn tại bốn nước Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Hàn và Cuba, là những nước theo chế độ cộng sản còn sót lại trên hành tinh này. Cung cách chính quyền các nước này đối với người dân lộ rõ tính cách phản động của họ đối với xu hướng tiến chung của cả thế giới. “Phản động”, cái từ họ ưa dùng nhất từ khi xây dựng cách mạng vô sản để chỉ những thành phần mà họ không ưa, một vũ khí để tiêu diệt bất cứ ai không đồng ý với họ, bây giờ lại rơi vào chính họ, và chưa bao giờ nghĩa của hai chữ này lại đúng đến như thế. Một anh bạn tôi ở San Diego trước Tết 2004 vừa rồi có cùng gia đình về Việt Nam chơi, thuê riêng một tour đi từ Sài Gòn ra tận Hà Nội, Hạ Long. Chương trình ở Hà Nội có mục đi “thăm lăng Bác”. Nhưng anh bạn của tôi, vốn đi cải tạo mười năm sau 1975, không muốn gặp Bác tí nào, bèn thoái thác cái mục ấy, thì bị người hướng dẫn du lịch kỳ kèo một cách khác thường. Anh ta cứ năn nỉ ỉ ôi, chèo kéo mãi, làm như không thuyết phục được toán du khách Việt kiều vào lăng nhìn xác ông Hồ (chẳng biết là giả hay thật) sẽ là một thất bại chính trị lớn của Ðảng mà anh ta là đại diện vậy. Thiệt là kỳ cục. Các hướng dẫn viên du lịch rõ ràng đã nhận được lệnh của chính quyền khuyến dụ càng đông người Việt từ nước ngoài về vào thăm lăng Hồ Chí Minh càng tốt. Ðể làm gì? Người ta hy vọng khi nhìn thấy cái xác của ông Hồ nằm đó thì người Việt kiều sẽ cảm động và sẽ có thiện cảm với Đảng Cộng sản Việt Nam hơn chăng? Hay là người ta sẽ tổng kết con số người vào thăm để phao truyền cho một ý đồ chính trị? Ðó là một cái “mánh” trong muôn ngàn mánh lới mà cộng sản Việt Nam luôn luôn áp dụng từ xưa đến nay trong các mục tiêu xảo trá của họ. Có người hướng dẫn du lịch ở một nước nào mà lại năn nỉ, níu kéo cho bằng được du khách viếng thăm một nơi mà người ta không thích, dù là người ta đã trả tiền cho cả tour du lịch đó rồi? Trả tiền rồi mà không đi thăm thì mất tiền, người ta chịu lỗ, có gì mà phải níu kéo làm phiền khách như thế? Có một cái gì như là bị bó buộc, khó xử, trong thái độ của người tour guide bình thường rất là hoạt bát dễ mến ấy. Anh bạn tôi nhìn anh ta một cách thương hại, nhưng vẫn không thể chìu theo ý anh ta được. Giữa cô hướng dẫn du lịch của tôi ở Thiên An Môn với anh chàng đồng nghiệp ấy ở Hà Nội tuy xa cách và không quen biết nhau nhưng vẫn có một mẫu số chung, là khiếp sợ cái cường quyền đang ngự trị trên đầu họ. Họ không thể ứng xử một cách tự nhiên với chức năng nghề nghiệp giống như bao đồng nghiệp khác trên thế giới: họ đang sống trong chế độ cộng sản.

Vụ thảm sát Thiên An Môn xảy ra vào ngày 4 tháng Sáu 1989, cách đây cũng đã 15 năm, thế mà hiện nay nhà cầm quyền Bắc Kinh vẫn có những biện pháp rất là phát-xít đối với những ai dính líu tới vụ ấy. Trong tháng Năm năm nay (2004), Trung Cộng vẫn tích cực ngăn chặn bất cứ dấu hiệu nào muốn kỷ niệm biến cố ấy, vây nhà những người tranh đấu cho dân chủ, điện thoại của họ bị cắt hoặc nghe lén, Internet thì không dùng được, một số người được lệnh phải rời khỏi Bắc Kinh. Thậm chí nhà của thân nhân những người bị thảm sát cũng bị rình rập và đe dọa. Vừa rồi, bà Ding Zilin, một giáo sư về hưu 67 tuổi, có con trai bị giết trong vụ đàn áp, đã nói: “Với tư cách một người Trung Quốc, tôi cảm thấy rất đáng buồn. Ðây là một chính phủ sợ sệt. Họ đã làm bậy, chẳng những họ không xin lỗi mà còn tiếp tục thi hành những điều sai quấy”. Bà là người phát ngôn của nhóm “Những bà mẹ Thiên An Môn”, cho biết từ trung tuần tháng Năm năm nay, công an đã canh gác bên ngoài căn chung cư của gia đình bà, và bà chỉ được đi ra ngoài để mua thực phẩm hoặc tới bệnh viện.

Tôi để ý thái độ của du khách đến Thiên An Môn, những toán người Tàu cũng như người các nước khác, đa số không còn vẻ vô tư của những kẻ đi chơi: họ mang một chút e dè, một chút trầm mặc, dường như oan hồn uổng tử của cả ngàn người trong cuộc “tứ lục vận động” mười lăm năm trước chưa tiêu tan khỏi nơi đây, khiến khách du không thể cười vui thoải mái được.


Cấm Thành

Ngày đầu tiên ở Bắc Kinh chúng tôi được hướng dẫn đi thăm Cấm Thành và Cung điện Mùa hè. Vì Thiên An Môn nằm ngay trước Cấm Thành nên nó có trong danh sách viếng thăm, tôi nghĩ nếu nó nằm ở một nơi biệt lập, chắc người ta đã “lờ” đi. Gọi là Cấm Thành vì từ nhiều thế kỷ trước, dân chúng không được vô thành này. Cũng có tên là Tử Cấm Thành, tôi đoán vì thành được sơn màu đỏ tía (chữ Tử ở đây có nghĩa là đỏ tía). Nằm ở trung tâm thành phố Bắc Kinh, thành này mới được xây dựng từ năm 1406 đời nhà Minh, và trải qua hai triều Minh và Thanh đã có 24 vị Hoàng đế Trung Hoa trị vì ở đây. Cung điện cất trong khuôn viên thành, trên một diện tích 720.000 mét vuông, gồm 8707 phòng ốc, được xem là một kiến trúc xưa bằng gỗ lớn nhất, được giữ gìn hoàn hảo nhất còn tồn tại trên trái đất cho đến ngày nay.
Ðến gần cổng nhìn lên bức tường thành đồ sộ màu đỏ mặt tiền của Cấm Thành mới thấy cái lớn lao của thành quách cung điện Trung Hoa. Tự nhiên lúc đó hai chữ “Thiên Triều” hiện ra trong óc tôi, như là chỉ hai chữ đó mới diễn tả được những gì mình đang thấy trước mắt. Tại sao lại hai chữ đó? Có lẽ tôi còn mang tâm tư của tổ tiên của tôi, hàng ngàn năm thần phục nền văn minh Trung Hoa, tuy đã ý thức rằng “Nam Quốc sơn hà Nam đế cư” và giữ gìn nó một cách hữu hiệu, nhưng Trung Hoa vẫn là nước lớn làm mẫu mực về mọi mặt cho một “An Nam” bé tí teo nằm cheo leo ở biên giới phía nam. Nền văn minh cổ của Trung Hoa quá rực rỡ khiến những nước nhỏ láng giềng như Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam không thể không nhìn vào để tìm thấy nơi đó là chỗ dựa tinh thần cho mình, và gọi chính quyền của nó là Thiên Triều với tất cả ý nghĩa của sự ngưỡng phục. Ðứng trước Cấm Thành, nhớ lại thành Huế của mình, hay ngay cả hình ảnh hoàng cung của Nhật tại Tokyo, thấy nhỏ xíu như đồ chơi.

Bước vào bên trong, qua hết cung điện nọ đến cung điện kia, “qua những sân cung rộng hải hồ” lòng càng lúc càng khiếp sợ cái lớn lao của nước Tàu. Nước Tàu lớn, cơ quan đầu não của nó cũng phải lớn, đã đành, nhưng khi đi gần những chi tiết xây dựng cao, to, cầu kỳ thì thấy ngợp, cái cảm giác tiểu quốc, phiên bang trong người mình lại nổi dậy. Mỗi cung điện có tên, một công dụng và ý nghĩa riêng, dựa trên triết học Trung Hoa về Trời, Ðất và Con Người, được xây dựng trên một đường thẳng từ ngoài vào, uy nghi, kính cẩn, đúng với vai trò của “con trời” xuống trị vì thiên hạ. Từ ngoài vào trong tôi nhớ đã gặp Thái Hòa điện, nơi đặt ngai vua và tổ chức các đại lễ, Trung Hòa điện ngay sau điện Thái Hòa là nơi vua làm việc, rồi đến Bảo Hòa điện là nơi vua thết tiệc. Ðó là khu chính, dành cho việc triều đình và lễ nghi, gọi là khu ngoài. Khu trong (nội khu) nằm về phía bên trái của đường thẳng các điện chính, dành cho tư thất của nhà vua, hoàng hậu và phi tần.

Nhưng khu tư thất của nhà vua thì lại không lớn lao tương xứng với những nơi thiết triều hay làm các loại nghi lễ. Dĩ nhiên nơi ở thì phải thân mật, ấm cúng hơn, nhưng tôi vẫn có cảm tưởng nó tủn mủn, lặt vặt và bề bộn như các tư thất khác của người Tàu. Ðồ quý giá thì dĩ nhiên nhiều, rất nhiều, nhưng thư phòng, rồi phòng ngủ của hoàng đế nước Tàu tôi thấy chẳng “vua chúa” chút nào: chật hẹp, thậm chí cả tối tăm và cái giường ngủ thì đặt tại một góc mà tôi cho là thiếu không khí để thở. Dĩ nhiên cái không gian sống của mỗi một người chỉ có ý nghĩa khi người ấy đang sống ở đó, nó thích hợp với phong cách cá nhân và truyền thống của họ, và chỉ như thế họ mới cảm thấy hạnh phúc. Tù trưởng một bộ lạc trong rừng núi thì phải nằm trên một cái nhà sàn, bên cạnh một bếp lửa đầy cả tro than, có thể trang bị thêm mấy cái ống vố hút thuốc và một hũ rượu cần. Hoàng đế nước Pháp trong điện Versailles thì phải sống trong khung cảnh cao rộng vàng son lộng lẫy. Và hoàng đế Trung Hoa thì ở đây, trong khu vực riêng thuộc Tử Cấm Thành, phải đi qua một cái cổng cong cong, một khoảnh sân be bé để vào nhiều dãy nhà hơi thấp, hơi tối đầy nhóc đồ đạc quý giá. Có vẻ sự chặt chẽ trong kiến trúc tại đây là nhằm vào vấn đề an ninh cho ông vua. Chỗ ở của vua không được nằm trong một không gian “loãng”, trong đó sự bảo vệ buộc phải trải rộng ra, mà nên được tổ chức thật chặt trong một cấu trúc nhà cửa càng thu gọn càng tốt.
Vườn thượng uyển là một nơi lứa tuổi thiếu nhi thuộc nhiều thế hệ thả trí tưởng tượng của mình đi lang thang nhiều nhất. Vì chỉ nghe tả trong sách nên mỗi người tưởng tượng ra vườn thượng uyển một cách, nhưng cách nào thì đó cũng là nơi vô cùng đẹp đẽ, đầy cả “kỳ hoa dị thảo”. Và dĩ nhiên trong đó luôn luôn có những nàng công chúa rất đẹp, rất tươi dạo chơi. Vườn thượng uyển của cung cấm Tàu mà tôi đi qua thì không giống như tôi đã tưởng tượng trong tuổi thơ: nó hẹp quá, và màu sắc nó u ám quá, khác với cảnh một khu vườn rộng mênh mông muôn hồng ngàn tía với nhiều ngóc ngách bí ẩn từng nằm trong trí tưởng của tôi. Ở đây, trong một diện tích hạn chế của thành quách và cung cấm, thượng uyển chỉ là một khoảnh đất rộng vừa phải, trên đó đặt nhiều tượng cùng các vật trang trí, nhiều hòn giả sơn mà ngày tháng đã mặc cho chúng một bộ áo màu sắc rất buồn bã, và một số cây cối kỳ dị. Ðây không phải một chỗ đầy thơ mộng và lộng lẫy như mình tưởng khi còn nhỏ, đây chỉ là nơi triển lãm những kỳ công về tài khéo – của con người và của thiên nhiên. Những hòn giả sơn mang đến chốn cung cấm một chút núi non sông nước ở ngoài xa kia, nhưng đó chỉ là những cảnh giả tạo mà con hổ nhớ rừng của Thế Lữ đã lắc đầu chê bai kịch liệt, và chắc hẳn không thiếu những nàng cung nữ thời xưa cũng chán ngán những cảnh này khi nhớ đến quê nhà trời cao sông rộng của một thời thơ ấu. Những cây cối kỳ dị là sản phẩm đặc biệt của thiên nhiên mà con người tìm thấy, rồi mang về đây, giá trị ở chỗ lạ và cầu kỳ hơn là mỹ thuật. Những nét vặn vẹo kỳ quái của thân của cành chỉ để “làm trò lạ mắt thứ đồ chơi”, thỏa mãn cái tinh thần sở hữu rộng lớn của Thiên triều, bao nhiêu cống vật quý hiếm của thiên hạ đã đổ về để tô điểm cho cái thị hiếu đã nhàm chán mọi thứ của những người cái gì cũng đã có. Tội nghiệp cái thằng bé con là tôi năm sáu chục năm về trước nâng niu trong trí tưởng tượng một vườn thượng uyển thơ mộng đẹp đẽ là thế, nay vỡ mộng. Tôi đã không hiểu rằng trong nhóm chữ “kỳ hoa dị thảo” đã chứa hai chữ kỳdị rồi, ở đó đâu có chỗ cho cái đẹp đơn sơ và trong sáng của một đứa bé con! Nhưng nghĩ cho cùng, bây giờ, đây chỉ là một khu vườn chết, nó chỉ là khu trưng bày chứ không phải nơi thưởng ngoạn của những người từng sống với nó, hàng ngày nhìn ngắm thưởng thức vẻ đẹp đổi thay của nó. Hai điều đó khác nhau nhiều lắm. Bây giờ cả khu vườn chỉ là một bức tranh tĩnh vật. Trong thời của nó, nó là một thực thể sống, được tiếp nhận, ve vuốt, mến yêu bởi biết bao nhiêu con người quý phái, tự nó phải bộc lộ cả hương sắc của mình ra. Tôi đến đây chỉ để xem những gì còn sót lại của lịch sử, những cái xác đã khô cứng không còn sắc hương. Các cảm nhận của tôi với các di tích này cũng chỉ là các cảm giác rơi rớt của một người đời sau, muộn màng và thô kệch, bởi linh hồn của sự sống thật nơi đây đã không còn nữa. Tôi không có nổi những cảm xúc của Xuân Diệu

Tiếng đàn thầm dịu dẫn tôi đi
Qua những sân cung rộng hải hồ,
Có phải A Phòng hay Cô Tô
Lá liễu dài như một nét mi...

(trích từ bài Nhị Hồ, Xuân Diệu)


có khả năng làm sống lại tình cảm cung cấm của đời xưa – chỉ các thi nhân có được sức mạnh ấy. Khi đứng giữa vườn thượng uyển của hoàng đế Trung Hoa, lòng tôi vẫn không có được trạng thái “tương tư nâng hồn lên chơi vơi” chỉ vì cái khô cứng của chung quanh, và có lẽ của cả tâm hồn tôi.


 

Cung điện Mùa hè

Nhưng Cung điện Mùa hè của Từ Hi Thái Hậu so với vườn thượng uyển thì thực là một trời một vực, như từ cái thực rộng lớn đến với cái giả cỏn con. Nằm ở phía tây bắc Bắc Kinh, cách trung tâm thành phố chỉ 15 cây số, khu này được xem là một công viên cổ nổi tiếng nhất của Trung Hoa. Từ năm 1153, đời nhà Tống, đã có xây một hành cung tại đây, nhưng đến năm 1888, Từ Hy Thái Hậu mới khởi công xây dựng cả vùng rộng lớn gồm dãy đồi Trường Thọ và hồ Côn Minh này thành một quần thể đặt tên là Cung điện Mùa hè. Thật ra chữ “cung điện” không hàm hết được cảnh trí, tình cảm và tầm cỡ của vùng nghỉ ngơi vương giả này, nhưng nhóm từ Cung điện Mùa hè từ lâu đã được hình dung là cả một vùng nước non rộng lớn ở đây, và đã phá vỡ hết các ý niệm về chính trị, về tổ chức đầu não của Thiên Triều với các quan niệm triết lý đã được đóng khung bằng những hình tượng cụ thể của quần thể cung điện nơi Cấm Thành. Vâng, phá vỡ hết. Ở đây là lãng mạn và tâm linh, là hồn con người phóng ra khỏi phiền trược thế gian để đạt những giây phút xuất thần với thiên nhiên, thậm chí với hư vô. Hoàng đế ở giữa lưng chừng đồi, nhìn xuống một cái hồ rộng mênh mông đến mút mắt. Cả một khu vực thiên nhiên rộng lớn gồm cả dãy đồi, cả cái hồ đều thuộc phạm vi Cung điện Mùa hè. Nếu Cấm Thành hoàn toàn là công trình nhân tạo, ngay cả chỗ “tươi mát” nhất là vườn thượng uyển, thì ở đây thiên nhiên là cái chính, các yếu tố nhân tạo chỉ là để tạo tiện nghi một cách điểm xuyết để con người thoải mái đắm mình vào thiên nhiên này. Các kiến trúc tuyệt đẹp ở đây tô điểm nên những nét vô cùng vương giả, nhưng cùng lúc cũng tạo nên một sự hòa hợp bậc thầy giữa một vùng thiên nhiên như tranh vẽ. Ở đây con người “thoát tục” thôi nghĩ về chính trị, về quyền lực để mở cánh cửa tâm hồn mình về một hướng khác. Ngôi chùa Lạt Ma trên đỉnh núi với chóp vàng son ngự trị cả một vùng như là một lời nhắc nhở và mời gọi về một cảnh giới, một thứ hạnh phúc không giống với những gì người ta lăn lộn hằng ngày giữa chốn triều đình. Sơn và thủy luôn luôn là hai yếu tố hỗ trợ nhau để tạo nên vẻ đẹp, và hình như chỉ trong khung cảnh ấy con người mới có thể bồi đắp thêm những nét trữ tình, lãng mạn nhất của mình.

Dãy hành lang ven hồ dài một cây số dùng để đi bộ trong những ngày mưa, được trang trí bằng 40.000 bức họa về đủ các sự tích thần tiên hoặc lịch sử của Trung Hoa, là một kỳ công của ý tưởng kiến trúc và mỹ thuật. Cô hướng dẫn du lịch đưa cả đoàn đi dọc theo hành lang, chốc chốc dừng lại để giới thiệu một bức tranh mà cô lựa chọn trong vô số bức dọc đường đi. Ðiều tôi ngạc nhiên là tất cả các bức ấy đối với tôi, hoặc có thể với bất cứ người Việt Nam nào, đều không xa lạ, thoạt nhìn qua là tôi đã biết đó là sự tích gì khỏi phải nghe cô hướng dẫn giải thích dài dòng. Thì đó là hình vẽ cảnh Hội Ðào viên của Lưu Quan Trương trích trong truyện Tam Quốc, cảnh con khỉ Tôn Hành Giả tại Hoa quả Sơn hay thầy trò Tam Tạng đi thỉnh kinh từ truyện Tây Du, các anh hùng Lương Sơn Bạc đứng giữa núi non ao hồ của Thủy Hử, Ngưu Lang và Chức Nữ mỗi người ngồi một bên cái cầu Ô Thước (lần đầu tiên tôi thấy hình ảnh một cái cầu được dựng thành bởi một đàn quạ đông vô số kể), hay là cảnh ông Lão Tử cưỡi lừa... Các tranh vẽ này làm tôi liên tưởng đến những xe mì ở Sài Gòn trước đây, cũng thường được trang trí bằng tranh sự tích vẽ trên các tấm gương, mà khi ngồi chờ chú ba Tàu nấu mì, tôi thường tò mò xem. Ðề tài cũng in hệt như ở đây, cũng Quan Công mặt đỏ cầm Thanh Long đao cưỡi ngựa xích thố, Tôn Hành Giả đằng vân trên mây... Văn hóa Tàu hay thực, chốn cung đình cao sang hay nơi chợ búa dân giã cũng bấy nhiêu chuyện, lặp đi lặp lại không biết chán từ thế hệ này qua thế hệ khác với một lòng tự hào không suy giảm, và vẫn được thưởng thức dài dài. Cứ nhìn cô hướng dẫn du lịch say sưa giới thiệu các tác phẩm ấy mới thấy người Tàu vẫn còn mê các dấu tích văn hóa ấy lắm. Ðó là một nền văn hóa của quá khứ, toàn là sự tích... Tôi tự hỏi cho đến bao giờ thì các đề tài này được thay thế hoặc được thêm vào bằng các sự tích mới, chẳng hạn như cuộc trường chinh của Mao Trạch Ðông, hay là các hoạt động ghê gớm của Hồng Vệ Binh?... Làm thế nào một sự kiện chính trị, quân sự hay văn học được tuyển chọn để thành một đề tài cổ điển trong nền văn hóa Trung Hoa, được vẽ thành tranh, được dựng tuồng hát, và cứ thế sống mãi đời này qua đời khác?

Nhưng hỏi như thế về văn hóa Tàu, tôi không thể không có những tự vấn về văn hóa Việt Nam. Người Việt Nam biết và thích thú về nhiều sự tích của Tàu, nhưng lại không mấy ai để ý đến sự tích Việt Nam. Sự tích Việt Nam hầu như không đáng kể trong dân gian nếu so với sự tích Tàu.

Ðến đây tôi thấy rõ rằng, về quá khứ nước Tàu thì kiến thức một người Việt Nam trung bình như tôi với kiến thức một người Tàu trung bình cũng không khác nhau là mấy. Trong đoàn của tôi có ông Hoàng, một người Mỹ gốc Hoa hiện sinh sống tại New York đưa người con gái mới đậu bác sĩ về Tàu thăm quê cha đất tổ, lấy làm ngạc nhiên sao sự tích nào của Tàu tôi cũng biết một cách rành rẽ như vậy. Tôi chỉ dám giải thích với ông là tại hồi nhỏ tôi mê đọc... truyện Tàu, chứ không dám đề cập đến chuyện Việt Nam đã bị Bắc thuộc một ngàn năm, và một ngàn năm kế tiếp sau đó thì việc xây dựng chính quyền, giáo dục, sách vở, thi cử, chữ viết... đều nhất nhất theo Tàu. Tôi cũng không dám kể cho ông Hoàng biết là hồi tôi còn nhỏ, khi cầm trên tay bất cứ một mảnh giấy gì có chữ nho – một toa dầu Nhị Thiên Ðường chẳng hạn – mà ông nội tôi nhìn thấy, thì lập tức ông tôi ra lệnh đem cất hoặc đem đốt đi chứ không được đem ra chơi và vứt bừa bãi những miếng giấy có “chữ ta”, chữ của thánh hiền. Vâng, vào một thời điểm cách đây chưa xa lắm, vào nửa đầu thập niên 1940, thế hệ người già vẫn coi chữ Tàu là chữ ta, có lẽ để phân biệt với “chữ Tây” có thể bao gồm luôn chữ quốc ngữ mà chúng ta dùng bây giờ.

Người Việt Nam hiểu biết văn hóa Tàu, về những nét cơ bản không khác gì một người Tàu. Tôi tự hỏi giữa tôi và ông Hoàng – sang Mỹ từ khi còn nhỏ – khi đến thăm nước Tàu, thì tâm trạng và cảm tưởng có khác nhau nhiều không? Với ông Hoàng, cũng chỉ có thể dùng chữ “đến nước Tàu” giống như tôi, chứ không nên dùng chữ “về”, vì nước Tàu đối với ông cũng xa lạ không kém gì tôi. Ông là một người có văn hóa, đọc sách Tàu nhiều, và tôi thấy trình độ hiểu biết về lịch sử và văn học Trung Hoa của ông cũng na ná như tôi, đại khái thuộc các triều đại cai trị nước Tàu từ thượng cổ đến bây giờ, biết rành các mẩu chuyện trong Tam Quốc, Tây Du, có thể đọc vanh vách một vài bài thơ Ðường... Một lần nói chuyện với nhau về chùa Hàn San, cả ông và tôi đều buộc miệng đọc bài thơ Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế, ông đọc theo giọng Tàu của ông và tôi theo kiểu Hán Việt của tôi, hai người song ca cho đến hết bài thì cùng bắt tay nhau cười ha hả. Ðó là cái cười thống khoái của tình cảnh “tha hương ngộ cố tri” – đúng thế, dù là kẻ Tàu người Việt nòi giống khác nhau nhưng rõ ràng cả hai chúng tôi có chung một quê hương, quê hương tâm thức, nơi đó thơ, văn, triết học Trung Hoa đã góp phần xây dựng nên tâm hồn và phong cách của mình.

Cái hành lang hun hút đầy cả tranh sự tích Trung Hoa trong vùng Cung điện Mùa hè có khả năng làm sống dậy con người xưa cũ, con người tiềm thức ẩn tàng trong tôi, mà thời cuộc đảo điên của Việt Nam bao năm qua cộng với cuộc sống ngay trong lòng xã hội Tây phương tưởng đã xóa đi mất rồi. Ông Hoàng đi tìm thăm và đã gặp quê hương của tổ tiên ông, trong lúc tôi cũng tìm thấy một loại quê hương khác do tổ tiên tôi để lại, nằm trong chỗ tế vi nơi các tế bào thần kinh của tôi.


Nước lớn

Từ lâu trước khi tôi đi Tàu, anh Nguyễn Mộng Giác có lần nói với tôi: “Mình ở nước Mỹ đã là một nước lớn, thế nhưng có đi Tàu mới gặp những cái thực sự lớn lao. Cái đất nước ấy nó ‘lớn’ thật!”

Chỉ mới đi thăm Cấm Thành và Cung điện Mùa hè, tôi đã cảm nghiệm điều anh Giác nói là đúng. Và không khỏi tự hỏi: Tại sao trên thế giới có nước lớn và có nước nhỏ? Cái gì làm cho một nước trở thành “lớn”? Ý chí của dân tộc? Trí thông minh của một nòi giống? Sống trên một miếng đất lớn? Cái “duyên” nào, do đâu mà ra, để kết hợp nhiều yếu tố lại hầu tạo ra một nước lớn?

Thế nhưng trước hết phải tạm tìm một định nghĩa cho hai chữ “nước lớn”, Lớn, trước hết phải là đất rộng, người đông. Nhưng phải mạnh nữa: về vật chất, có nền kinh tế phồn thịnh và tiến bộ, quân sự vững vàng; về tinh thần, cuộc sống của nước ấy phải dung chứa một nền văn minh, phải đem lại được cho nhân loại những giá trị nhân bản, nỗ lực đưa cuộc sống con người đến chỗ xứng đáng hơn.

Sau khi suy nghĩ vài nét như thế về định nghĩa của một “nước lớn”, tôi thấy nước lớn là tại... trời sinh, “định phận tại thiên thư”. Chẳng có ai “muốn” mà được. Kìa như dân tộc Ðức, thông minh tuyệt chúng, tham vọng cũng dữ dằn, muốn bá chủ thiên hạ để một mình mình làm một nước thật lớn mà dân chúng chỉ thuần là một nòi giống Aryan ưu việt, nhưng cũng đâu có được. Cái số của nó là vĩnh viễn chỉ nằm kẹp giữa các nước lon con của Âu châu, và hành xử như một cường quốc... bé. Kìa như nước Mỹ, thoạt đầu Tân thế giới chỉ là đất của những cơ hội nho nhỏ, người ta chạy khỏi Âu châu cũ để thoát khỏi sự chèn ép hẹp hòi về tôn giáo, về chính trị, hoặc để thoát khỏi sự nghèo nàn cơ cực cho gia đình, hoặc cùng lắm để thỏa mộng phiêu lưu, nhưng cuối cùng cái duyên đã tới đầy đủ để xây dựng nên một quốc gia hàng đầu của thế giới, lớn về địa lý, về ý tưởng, về mọi phương diện sản xuất và tổ chức đời sống. Giống như một sự tình cờ nhưng chắc không phải tình cờ. Cùng thời với nước Mỹ cũng có nhiều nước ở Tân thế giới được thành lập, thậm chí được thành lập trước cả nước Mỹ, với một diện tích cũng mênh mông, thế mà ì ạch mãi dăm thế kỷ nay cũng vẫn không thành... nước lớn được. Xem ra chỉ lớn cái xác. Tại sao thế?

Và nước Tàu, từ thượng cổ cũng chẳng có dấu hiệu gì là một nước lớn. Trong vùng đất phía Bắc Trung Hoa thuở ấy chia manh mún ra nhiều nước nhỏ, và tiếng nói cũng không hoàn toàn thống nhất với nhau. Cái khác người là từ đó đã có những đầu óc siêu việt, đã nghĩ trước ra bao điều khôn ngoan về thiên nhiên và con người, đã nghĩ ra cách ghi chép bằng hình tượng mà sau này thành chữ viết, và chính điều sau này đã là một phương tiện đắc lực để làm một “sợi chỉ xuyên suốt” tóm thâu thiên hạ về một mối. Nhưng chữ viết nghĩ cho cùng cũng chỉ là một phương tiện, dù là một phương tiện cực kỳ thông minh, điều quan trọng là những gì nó chuyên chở. Chính những nội dung suy nghĩ của người Trung Hoa xưa mới là cái quyết định để Trung Hoa trở thành “nước lớn”. Họ suy nghĩ lớn. Người Tàu, về phương diện khoa học, đã phát minh rất sớm ra vô số thứ giữa lúc phần lớn nhân loại còn chìm ngập trong u mê. Họ cũng nhìn ra những vấn đề có tầm vóc nhân loại, cho muôn thuở. Con người ngày nay vẫn phải còn học những tư tưởng Trung Hoa xưa, những lẽ “thoát tục” của Lão tử, Trang tử, những lẽ “dấn thân” của Khổng tử, Mạnh tử vẫn nằm trong khả năng và nhu cầu của con người từ thượng cổ đến giờ, người ta vẫn thấy đó là những “túi khôn” nếu nói một cách sống sượng như ngày nay, hoặc là “lời lẽ thánh hiền” như các cụ ta xưa đã từng cung kính. Giống như tư tưởng của Phật Thích Ca, của triết gia Hy Lạp cổ, và cùng lúc với các trào lưu bộc phát tư tưởng của hai nước này, triết học Trung Hoa xưa đạt mức phổ quát, thích hợp cho cả nhân loại trong mọi thời đại, vì nó đặt nặng chữ Nhân. Những loại “tư tưởng” không coi trọng con người như của phát-xít, mác-xít trong thế kỷ thứ 19, 20 thì không tồn tại được quá thời đại của chính nó.

Trường hợp Hán tộc gầy dựng nên một nước lớn và tiếp tục giữ gìn đất nước và dân tộc từ thượng cổ đến bây giờ là một trường hợp hiếm hoi của nhân loại. Tự nó, Hán tộc có một sức mạnh nội tại kỳ lạ, bất kể trong tư thế thắng hay thua. Thắng thì dĩ nhiên họ là Thiên Triều vỗ về trăm họ, phát triển học thuật, công nghệ, thương mại ra khắp các lân bang, ánh sáng của nền văn minh Trung Hoa chiếu rạng khắp nơi. Nhưng cũng có khi họ thua xiểng liểng, và người thắng họ luôn luôn đến từ phương Bắc, mà họ gọi một cách miệt thị là Rợ Hồ. Không phải là họ thua trong một hai trận chiến – thua kiểu này thì họ cũng đã thua nước Việt Nam của chúng ta nhiều keo khi có giã tâm muốn thôn tính nước ta – mà là mất luôn nước, người nước ngoài vào làm vua, cai trị nước Tàu. Lần đầu người Mông Cổ vào, lập nên nhà Nguyên, cai trị được một thế kỷ. Lần sau là người Mãn Châu, lập nên nhà Thanh, cầm đầu nước Trung Hoa hai thế kỷ rưỡi cho đến khi chấm dứt nền phong kiến với cách mạng Tân Hợi năm 1911. Dĩ nhiên mất nước họ cũng tủi hổ lắm, cũng vận động làm “cách mạng” để lật đổ kẻ cướp nước hầu giành lại nền độc lập cho người Hán, và cũng không thiếu gì người vì “Rợ Hồ” cướp mất nước mà đành di tản ra sinh sống ở nước ngoài, mà dấu vết ngày nay hãy còn là các làng Minh Hương rải rác trên nước ta, hay là họ Mạc ở đất Hà Tiên. Những điều như thế thật ra không lạ, dân nước nào lâm vào cảnh của họ cũng làm những việc tương tự, có thể chống đối, hoặc bỏ đi, xưa đã vậy mà nay cũng vậy. Ðiều lạ là những gì xảy ra trong nước Trung Hoa, dưới các triều đại ngoại xâm. Khi người Hồ cai trị nước Tàu, hầu như họ không áp đặt được nền văn hóa sẵn có của họ lên người Hán, bắt người Hán phải theo (trừ vài trường hợp lẻ tẻ như người Tàu thắt bím tóc theo kiểu người Mãn dưới đời nhà Thanh), mà chính họ phải dùng văn tự, ngôn ngữ Hán, học hành theo sách vở, triết học Trung Hoa, an hưởng những thành tựu rực rỡ của nền văn minh Trung Hoa: từ thức ăn, thức uống, thuốc men, phương tiện sản xuất và đi lại, nhà cửa cung điện, phong tục tập quán v.v... mà cuộc sống khắc khổ nặng tính cách du mục của họ chưa bao giờ đạt được tới. Chỉ trong vài thế hệ, người Hồ đã bị Hán hóa, thành người Hán, và lãnh thổ gốc của chính người Hồ xâm lăng ấy cũng từ từ biến thành lãnh thổ của Tàu lúc nào không hay. Rõ ràng trong lịch sử người Hán sợ người Hồ nhất, đời nọ sang đời kia chỉ lo chống đỡ sự xâm lăng vũ bão của những kẻ chuyên ngồi trên lưng ngựa, mạnh khỏe dẻo dai và dữ tợn một cách ít văn hóa. Họ sợ đến nỗi ở từng địa phương một, từ thời thượng cổ, đã lo xây tường để ngăn chặn Bắc quân, và khi nước Tàu thống nhất dưới đời Tần Thủy Hoàng thì một trong những điều “cần làm ngay” của tân hoàng đế chính là lo thống nhất bức tường thành bằng cách làm thêm và nối lại tất cả các bức thành đã được xây sẵn để có bức Vạn Lý Trường Thành trứ danh thế giới, mà ngày nay ngành du lịch Trung Hoa tha hồ khai thác để thu tiền. Nhưng rõ ràng trường thành cũng không ăn thua gì, khi hội đủ điều kiện để xâm lăng – Hán suy, Hồ mạnh – thì quân Bắc phương vượt qua trường thành dễ dàng, để thành lập hẳn các triều đại Nguyên, Thanh. Ðiều kỳ cục là Hán thua, nhưng nước Tàu không những không suy suyển gì mà lại còn thêm đất, thêm dân qua những cuộc xâm lăng ấy: cả Mông Cổ, cả Mãn Châu rồi cũng thành Tàu hết! Ðây không phải là trường hợp “bất chiến tự nhiên thành” mà là “chiến bại tự nhiên thành”. Mưu chước của người Tàu thì rất là thần sầu, nhưng chắc chắn không quân sư nào, nhà chiến lược nào của nước Trung Hoa xưa nghĩ ra nổi cái mưu chước này! Khổ nhục kế đến mức đem cả giang sơn đồ sộ cho người ngoài thống trị, để một hai thế kỷ sau đất của người, dân của người biến thành đất của ta, dân của ta... chắc mấy ông thánh, ông hiền có sống dậy cũng không ai dám chơi cái trò nguy hiểm như thế. Nhưng nó đã xảy ra là do sức mạnh lớn lao của nền văn minh Hán tộc. Hình như nó chẳng chủ trương gì cả, nhưng (rủi cho) ai đến với nó, chiếm lấy nó, thì biến thành nó, thế thôi.


Vạn Lý Trường Thành

Dĩ nhiên là chúng tôi phải đi thăm Vạn Lý Trường Thành, ngay sau ngày đi thăm Cấm Thành và Cung điện Mùa hè. Ðọc sách vở thì cứ tưởng Vạn Lý Trường Thành rất xa, nằm mịt mù tận biên giới phía Bắc, nhưng không ngờ có đoạn gần lắm, chỉ nằm trong khu vực có thể đi bằng xe buýt từ Bắc Kinh, đến thăm và về trong ngày thong thả.

Ðường lên hướng Bắc vào một buổi sáng xuân đem lại cho du khách một cảm giác nhẹ nhàng phơi phới. Trời đất phong quang, cỏ cây hai bên đường hớn hở sau mùa đông dài, đang ra sức trổ lá đơm hoa. Sinh hoạt nông thôn không hiện ra rõ nét hai bên con đường đi này, tôi nhớ không thấy cảnh cày bừa gieo cấy trên các cánh đồng. Cũng không thấy hình ảnh làng mạc, chỉ có các thị trấn nho nhỏ trên đường xe chạy, mà nhà cửa chủ yếu là các hãng xưởng, với các bức tường viết đầy khẩu hiệu.

Du lịch theo tour có cái tiện là mình được đưa đến tận nơi những chỗ đáng xem, tất cả được “lên chương trình” sẵn, khách chẳng phải lo gì cả, cứ được giắt đi đâu thì đi đó. Nhưng cũng có cái bất tiện là rất ít có dịp biết thêm về xứ sở mà mình tới, cụ thể là thăm dân cho biết sự tình. Ngay cả việc mua sắm, khách cũng được “chỉ định” những nơi sẽ ghé lại, không thể la cà nơi này nơi kia. Dĩ nhiên như thế an ninh cho khách hơn: chỉ mua đồ xịn, với giá cả ổn định, không lo bị lừa gạt, nhưng cũng mất cái thú len lỏi vào các ngóc ngách của đời sống để hiểu biết thêm, dù đôi khi phải trả giá khá đắt – nhưng cũng lắm khi lại rất rẻ.

Sáng hôm đó trên đường đi chúng tôi được ghé lại một nơi sản xuất và bán đồ mỹ nghệ, đặc biệt là các loại bình, tượng. Ðó là một cơ sở rất lớn, vừa sản xuất vừa bán hàng. Loại bình hoa với các họa tiết tinh xảo mà ta thường gặp ở những nơi như thương xá Phước Lộc Thọ ở Little Saigon hoặc các Chinatown, không bao giờ ta bỏ ra một vài giây để tưởng tượng xem chúng được làm ra như thế nào, thì ở đây, khách có thể chứng kiến hầu hết chu trình sản xuất ra chúng. Từ lâu tôi vẫn thán phục những cái bình có hình vẽ trên men mà có lẫn những sợi kim loại màu vàng chạy ngoằn nghèo, đến hôm đó tôi mới được thấy tận mắt cách thực hiện. Công phu không thể tả. Người ta uốn sẵn những sợi dây đồng rất mảnh theo hình nhà cửa, hoa lá... người thợ thủ công dùng cái kẹp gắp từng “sợi”, bôi keo rồi dán vào thân những chiếc bình trơn tiện bằng kim loại. Sau đó bình sẽ được đắp gốm và men chồng lên trên và vẽ hình theo các đường nét những sợi kim loại đã tạo ra sẵn, và mài bóng mặt ngoài để các đường chỉ kim loại bóng ánh lên. Ðại khái là như thế, những công đoạn trong thực tế dĩ nhiên là rắc rối hơn nhiều. Nói thì dễ, bắt tay vô làm mới thấy không biết bao nhiêu là công phu và tài khéo đổ vào để có một cái bình mà ta có thể thấy nhan nhản ngoài phố, và thường khi chẳng bao giờ thắc mắc làm sao để có được những đường chỉ kim loại rất sắc sảo chạy lẫn trong lớp sứ.

Khi xe đến gần khu vực lăng tẩm của các vua triều Minh thì hai bên đường hiện ra toàn một sắc hồng của những vườn đào. Khoảng 10 cây số, toàn một màu như thế, vùng này người ta trồng đào lấy trái trên một diện tích rộng lớn, loại cây không cao, chỉ quá đầu người một tí và may mắn là chúng tôi đến đúng thời điểm cây nở hoa. Khi xe dừng để khách chuẩn bị vào thăm lăng vua Minh, tôi thử len lỏi vào hẳn trong một vườn đào để chụp ảnh. Ði giữa vườn đào đang nở hoa thế này thì mặt người dù nước da xấu cũng trở nên hồng hào, bất giác nhớ câu thơ Nhân diện đào hoa tương ánh hồng [1] của Thôi Hộ, lòng thấy cảm động vì từ hôm đến nước Tàu đến bây giờ, đây là lần đầu tiên tôi đứng giữa một thiên nhiên hoang dã, vắng vẻ chỉ có một mình, và đã liên hệ được cảnh trí trước mắt với một chút văn thơ Trung Hoa. Trước đây tôi đã nhiều lần đứng ngắm cây hoa đào và nhớ tới câu thơ này, nhưng đào Ðà Lạt thì hoa thưa thớt quá, đào Mỹ thì đúng là có nhiều cây hồng rực lên từ gốc tới ngọn, nhưng khung cảnh và cung cách trổ bông lại Tây phương quá, chẳng hợp với khí vị của một câu thơ Ðường. Chỉ có vườn đào ở đây, mọc trên mảnh đất nghìn năm của Hán tộc, mảnh đất mà từ đó đơm hoa kết trái biết bao văn thơ bất hủ của dân tộc Trung Hoa, mới tạo được sự hòa hợp lạ kỳ trong tâm tưởng của tôi. Tôi tự hỏi cây đào năm xưa đã làm Thôi Hộ nhớ đến khuôn mặt của mỹ nhân có giống với cây đào tôi gặp ở đây chăng. Cái ánh hồng trên mặt người đẹp năm xưa cũng như trên cành hoa đào hồi đó có còn tồn tại đến bây giờ không, có giống với ánh hồng đang tỏa dịu khắp vườn này không? Hoa đào bây giờ với hoa đào trước đây mươi thế kỷ thì chắc cũng thế, nước da trắng hồng của người con gái từ nghìn xưa đến nay chắc cũng thế, nhưng vấn đề là làm sao tái tạo được sự rung động của cổ nhân trong lòng con người bây giờ. Văn học làm được việc ấy. Nhờ câu thơ của Thôi Hộ mà tôi có được cái tâm trạng bồi hồi khi đứng trước ánh hồng của vườn hoa đào, mặc dù hai vế của tác giả đưa ra là nhân diệnđào hoa thì ở đây chỉ có một – nhưng chính sự thiếu vắng ấy mới gây một niềm tưởng nhớ mông lung vô định. Chính tác giả khi nói đến mặt người thì cũng chỉ là nói về chuyện “năm ngoái”, một kỷ niệm đã qua, và nỗi niềm bâng khuâng của bài thơ chính là do sự vắng bóng người đã gặp mùa xuân năm trước. Và chính tôi cũng thấy rằng không nên mơ ước một “nhân diện” ở đây, nếu muốn thưởng thức cho trọn nỗi niềm bâng khuâng ấy. Lắm khi sự vắng mặt lại có sức mạnh lớn hơn là sự có mặt rất nhiều.

Không biết tại sao tôi không muốn ghi chép nhiều về việc đi thăm hầm mộ của vị hoàng đế nhà Minh hôm ấy, mặc dù đây là một kinh nghiệm rất hiếm, và một lần nữa, lại gặp sự lớn lao, lớn lao của cái chết. Làm hoàng đế nước Tàu thì thế, sống hay chết đều phải “lớn” cả. Mười ba vị Hoàng đế của triều Minh cùng với Hoàng hậu của họ được chôn cất rải rác trong một vùng đất ba bề là núi, cách Bắc Kinh độ 50 cây số, và dĩ nhiên thân xác thật của họ được giấu rất kỹ, nhiều khi thấy lăng đấy nhưng không biết mộ thực sự nằm ở đâu.

Xế trưa chúng tôi tới Vạn Lý Trường Thành. Nếu nói về sự lớn lao thì đây là một công trình vào hạng lớn nhất Trung Hoa, cũng như của thế giới. Lớn về tầm vóc vật chất, về tuổi tác, và về công dụng của nó. Chắc chắn chẳng một bức tường thành nào trên thế giới dài bằng nó, chạy liên tục từ biển Thanh Hải lên mãi đến núi Thiên San giáp giới vùng Tân Cương mới hết. Nó dài bao nhiêu? Các số liệu thay đổi. Theo Encyclopedia Britannica thì chiều dài của nó là 1.500 miles, tức 2400 cây số. Theo Nguyễn Hiến Lê trong cuốn Sử Trung Quốc thì Vạn Lý Trường Thành dài 4.500 dặm; nếu dặm đây là mile thì tính ra kilomét là 7200, một số Website về Vạn Lý Trường Thành hiện nay cũng đưa ra con số trên dưới bảy ngàn. Nhưng theo tài liệu mới nhất của Trung Quốc thì chiều dài của nó là 5.660 kilomét. Tôi thấy ta nên tin vào con số sau cùng này trong tài liệu của ngành du lịch Trung Quốc mà tôi có được trong chuyến đi vừa rồi. Dĩ nhiên thành chạy qua mọi địa thế của đất đai, núi non, đồng bằng, sa mạc, dù hiểm trở mấy nó cũng tìm cách vượt tới được, chỉ có gặp sông thì nó không bắc cầu để qua thôi. Lâu nay vì tên nó là Vạn Lý thì người ta thường chỉ để ý đến bề dài của nó, nay đến nơi mới thấy cái bề ngang và chiều cao cùng cách kiến trúc của nó rất là bề thế, vững chãi, hùng vĩ. Nó xây bằng đá và gạch, dưới chân rộng 25 thước, cao từ 15 đến 30 thước, mặt thành lát bằng đá to bảng, rộng tôi nghĩ hai chiếc xe jeep có thể tránh nhau được, hai bên có gờ xây cao lên, cách khoảng độ ba bốn mét thì chừa một đoạn trống rộng chừng bốn tấc, sâu hơn nửa thước, như một loại lỗ châu mai để quan sát và chiến đấu, vì thế từ xa trông mặt trên trường thành có hình răng cưa. Trên thành cách khoảng lại gặp một trạm gác xây theo kiểu pháo đài thường đặt ở những nơi dễ quan sát ra bên ngoài, và cũng có những hầm trong lòng thành có cầu thang bằng đá dẫn xuống, chắc là nơi chứa khí giới và làm chỗ nghỉ ngơi cho quân sĩ. Ngày xưa người ta dùng ngựa chạy trên mặt thành để liên lạc giữa trạm này và trạm khác ngoài cách gửi tín hiệu bằng khói (ban ngày) và lửa (ban đêm). Thành đã đứng trơ gan như thế trên hai ngàn năm rồi mà vẫn vững vàng, bề thế, dĩ nhiên được tu bổ nhiều lần trong những đời sau. Ðoạn thành chỗ chúng tôi thăm xây trên núi, và tôi để ý bất kể hình thể của núi như thế nào, thành luôn luôn được xây chạy dọc trên đỉnh, vì thế có những khúc đầy quanh co vặn vẹo trông rất lạ.

Ðọc sử Tàu thấy tả nhiều tình cảnh thống khổ của dân phu đi xây Vạn Lý Trường Thành, nhưng có đến đây xem cách xây thành mới phần nào cảm thấy được những cực nhọc nguy hiểm lớn lao đến mức nào. Xem hình thấy có những ngọn núi nhọn hoắt, cao vút, thế mà thành cũng bò lên ngự hẳn được trên đỉnh, tưởng tượng không biết bao nhiêu người đã rơi xuống vực mà chết trong khi phải vận chuyển gạch đá vôi vữa lên tận đỉnh núi ấy. Thời Tần Thủy Hoàng đã dùng ba trăm ngàn binh sĩ với không biết bao nhiêu tội nhân, quan lại phạm lỗi, nho sĩ không tuân lệnh đốt sách v.v... làm khổ sai xây thành trong những vùng rừng núi trùng trùng điệp điệp – ngày xưa cảnh vật chắc hẳn hoang sơ hơn bây giờ nhiều – và khí hậu của các vùng biên giới phía bắc này cũng vô cùng khắc nghiệt, mùa đông nước đóng thành băng, mùa hè nóng nung bụi cát mịt mù.

Các sự tích Trung Hoa liên quan đến việc xây thành thì nhiều, phần nhiều nói về những sự thương tâm của những người bị đày đi khổ sai, như câu chuyện nàng Mạnh Khương thương nhớ chồng, đi mười ngàn dặm để thăm chồng bị bắt đi xây thành, nhưng đến nơi thì chồng đã chết. Nhưng có một sự tích mới, là chuyện một phi hành gia khi bay vào vũ trụ, nhìn lại về trái đất tuyên bố rằng Vạn Lý Trường Thành là công trình xây cất duy nhất của con người trên mặt đất có thể nhìn thấy rõ ràng từ không gian. Câu chuyện đó, chúng ta nghe đã lâu. Ðó là niềm tự hào lớn lao của dân tộc Trung Hoa trong thời đại ngày nay, đã được ghi vào sách giáo khoa để dạy cho con em Ðại Hán, và có lẽ, cũng trở thành một huyền thoại như bao huyền thoại khác của nước Tàu. Nhưng cách đây một năm, vào tháng Mười năm 2003, Trung Hoa lần đầu tiên phóng phi thuyền có người lái vào không gian, phi hành gia Yang Liwei sau 21 giờ đồng hồ bay trên quỹ đạo trái đất khi về lại tuyên bố một câu làm thất vọng cả nước Tàu một cách sâu xa: “Ðịa cầu nhìn từ không gian thật đẹp, nhưng tôi đã không nhìn thấy Vạn Lý Trường Thành của chúng ta”. Câu tuyên bố này làm mọi người giật mình: vậy thì trước kia ai đã phao truyền cái huyền thoại kia? Chuyện ấy có hay không? Dư luận trong nước Tàu xôn xao, người thì đề nghị thắp đèn dọc theo trường thành để có thể nhìn thấy dễ dàng từ không gian, người thì đòi sửa chữa lại điểm đã nói sai trong sách giáo khoa. Nhưng một người Mỹ lại... “cứu bồ” cho dân Tàu, đó là phi hành gia Eugene Cernan, đã tuyên bố trong một chuyến viếng thăm Singapore: “Trên quỹ đạo Trái đất ở độ cao 160 đến 230 kilomét, người ta có thể nhìn thấy Vạn Lý Trường Thành bằng mắt trần”. Có thể phi hành gia Liwei bay nhằm vào một ngày điều kiện thời tiết và ánh sáng không tốt ở vùng Bắc nước Tàu – một điều xui xẻo cho anh ta. Nhưng cũng không có gì là chắc, con người chủ quan lắm, chỉ có máy móc là chắc chắn: từ độ cao 600 kilomét máy chụp hình từ phi thuyền có thể thu hình Vạn Lý Trường Thành khá rõ.

Vạn Lý Trường Thành là dấu tích xưa từ thượng cổ còn lại khá nguyên vẹn cho đến bây giờ, chứng tỏ kỹ thuật xây dựng thời ấy đã cao trong những điều kiện địa lý vô cùng khó khăn hiểm trở, và còn chứng tỏ khả năng tổ chức, lãnh đạo và nhất là tài nguyên nhân lực vật lực hầu như vô tận của nước Trung Hoa. Ðược xếp vào một trong bảy kỳ quan của thế giới, Vạn Lý Trường Thành đã phải đòi dân chúng Trung Hoa trả một cái giá rất đắt là biết bao khổ nhục, mồ hôi nước mắt và cả máu xương nữa để công trình vĩ đại đó thành hình. Nhưng có một điều chắc chắn, là nếu không có suy nghĩ lớn thì không một công trình lớn nào có mặt được trên đời này cả. Cái “lớn” của Trung Hoa là nằm ở chỗ ấy vậy.


Xứ sở của tường thành

Sau khi xem Vạn Lý Trường Thành và đi vòng vòng một số nơi trên đất Tàu, tôi khám phá ra điều này: người Tàu rất thích xây thành. Từ cái thành lớn nhất thế giới cho đến các loại thành lũy bao bọc các địa điểm trọng yếu tầm cỡ quốc gia, rồi đến những dinh thự, chùa chiền miếu mạo, nhà cửa của những phú gia, thậm chí đến những ngôi nhà đơn sơ ở thôn quê, đều có làm tường thành chung quanh. Ðó là nhà xưa. Trong những công trình xây cất mới, như hãng xưởng, hoặc các khu nhà tập thể tại các làng mạc, thị trấn, luôn luôn có bức tường bao bọc, như là một bộ phận không có không được trong kiến trúc nhà cửa. Nguyên thủy tường thành hẳn nhiên có công dụng ngăn ngừa kẻ lạ mặt xâm nhập vào một vùng sở hữu, dù đó là một nước, một kinh đô, một thị trấn hay tư gia. Có lẽ nước Tàu ngày xưa đã trải qua quá nhiều hỗn loạn, nhiều phe phái tranh giành nhau, đánh phá nhau, và cũng không thiếu những bè đảng ngoài lề xã hội chuyên cướp bóc của cải người khác, trong khi Rợ Hung Nô phía Bắc lúc nào cũng chực tràn xuống cướp phá Trung Nguyên, trong tình trạng như vậy người ta phải nghĩ ra cách tự bảo vệ, và một trong các cách đó là xây thành để ngăn chặn. Xây thành vững chung quanh và mình thủ kỹ bên trong, cách phòng thủ đó hơi thụ động, nhưng chắc ăn. Cái gì của ta thì ta hãy xác định rõ bằng một chu vi hữu hình, hơn nữa, khó vượt qua, để làm nản chí những kẻ có ý tưởng xâm chiếm, và gây khó khăn cho kẻ quyết tâm chiếm đoạt. Lịch sử chiến tranh Trung Hoa là lịch sử những trận công thành và thủ thành. Bên này khiêu chiến bên kia có nghĩa là đến bên thành mà nói vọng vào những lời khích bác, cho đến khi người thủ thành tức khí chịu không nổi nữa phải ra mặt. Chấp nhận đánh nhau thì mở cửa thành ra để hai kẻ chỉ huy giao chiến ngay trên miếng đất trước cổng thành, đánh không nổi thì lại rút vào thành đóng cửa lại. Tường thành là một tượng trưng hữu hình cho quyền sở hữu, và cho cả quyền lực nữa, như Tử Cấm Thành chẳng hạn.

Việc xây thành để xác định và bảo vệ quyền lực thì từ thượng cổ qua trung cổ, nhiều nơi trên trái đất đã làm, nhưng không có nơi nào mà việc xây tường thành đã trở thành một nét văn hóa đặc thù như nước Trung Hoa. Tường thành dính chặt với cuộc sống con người để nói lên chủ quyền và phạm vi lãnh thổ của họ, một sự khẳng định hình như rất cần thiết trong đời sống người Trung Hoa. Tường thành trở thành một tập quán trong xây cất, trong rất nhiều trường hợp đã biến thành những tác phẩm nghệ thuật. Ðã xây tường bao quanh tất nhiên phải làm cổng để ra vào, và cổng là một nơi thể hiện rõ nét cá tính lẫn địa vị của chủ nhân: nghiêm trang, uy nghi hay đơn sơ khiêm tốn, quyền lực phô trương hay thi vị lãng mạn... Tôi đã thấy những cái cổng đẹp một cách say đắm. Rất nhiều khi chưa cần vào bên trong, chỉ cần nhìn cái cổng cùng tường thành bao quanh người ta đã có ý niệm về chủ nhân. Hình như người Tàu chỉ cảm thấy an tâm và ấm áp khi được sống trong một nơi có tường thành vây bọc. Tôi đã nhìn thấy những ngôi nhà nhỏ xíu ở thôn quê, với một bức tường đắp bằng đất chung quanh, không thể tự hỏi làm bức tường ấy làm gì cho mất công, và không thể có câu trả lời hợp lý ngoài yếu tố tâm lý và phong tục. Người Tàu làm tường thành giống như người Việt Nam làm hàng rào, nhưng làm tường thì tốn công tốn của hơn nhiều, và sự quan hệ của những người sống hai bên bức tường chắc cũng khác với hai bên cái hàng rào. Ở nước ta thì:

Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn [2]


nhờ thế tình yêu đôi lứa trở nên dung dị, chứ không khó nhọc như nàng Kiều của đời Gia Tĩnh triều Minh phải trèo tường mới qua được nhà Kim Trọng.

Tường thành rõ ràng là một cái gì rất đặc biệt của người Trung Hoa, và cái thành ngữ “kín cổng cao tường” có lẽ cũng bắt nguồn từ nét văn hóa này của họ. Tôi đã nhận ra và rất mê nhiều kiểu tường thành khác nhau, trang trí khác nhau, màu sắc khác nhau, xây với vật liệu khác nhau, thậm chí nhiều nơi tôi thấy cái vật bao vây bên ngoài ấy còn giá trị hơn nội dung phía bên trong nhiều. Tôi rất tiếc không đủ thì giờ thăm thú kỹ lưỡng hơn các bức tường thành, mà tôi thấy là cả một thế giới vô cùng phong phú. Ngồi trên xe có khi tôi chợt thấy một bức tường đẹp quá, lòng vừa chớm một cảm giác rất thú vị thì xe đã vụt đi qua rồi. Nhiều khi tôi nghĩ lẩn thẩn, nếu bây giờ có một bạo chúa Trung Hoa ra lệnh phải phá bỏ hết tất cả tường thành của xứ này, thì cái xứ này nó sẽ ra thế nào? Nó sẽ tênh hênh, sẽ vô duyên, sẽ trơ trẽn, nói chung, nó sẽ không còn là Trung Hoa nữa. Lúc ấy, không khéo, cả nền văn minh Trung Hoa rồi cũng tan biến theo. 

Tiếng chuông chùa Hàn San

Khi đến Tô Châu thì cái tôi nóng lòng muốn gặp nhất không phải là người đẹp của ông Phạm Duy - vì biết khó lắm, giai nhân nan tái đắc, người đẹp gặp rồi còn khó gặp lại, huống hồ mình chưa từng được gặp một người đẹp Tô Châu nào; nơi tôi muốn đến là chùa Hàn San. Ðó là một ngôi chùa nằm bên bờ con sông đào, cách xa xa khu trung tâm thành phố, ngày xưa hẳn thuộc khu “thành ngoại,” nhưng bây giờ bốn bên cuộc sống cũng đông đúc náo nhiệt. Chùa vào loại trung bình, về qui mô cũng như về kiến trúc, nhưng du khách vẫn rất đông. Tôi nghĩ nếu như không có bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế nhắc đến chùa này thì ngày nay Hàn San Tự chưa chắc đã biến thành một địa điểm du lịch đông đảo khách đến thăm như ngày hôm nay. Vẫn biết Hàn San là ngôi cổ tự trên ngàn năm, và tên chùa gọi theo tên vị cao tăng Hàn San trụ trì tại đó vào đời nhà Ðường, nhưng quần chúng, Trung Hoa lẫn Việt Nam, “cảm” ngôi chùa đó qua bài thơ chứ không phải qua lịch sử Phật giáo Trung Hoa. Trương Kế sống vào thế kỷ thứ 8, đậu tiến sĩ năm 753 đời Ðường Huyền Tông, làm quan tại triều đình và tại Quảng Tây. Thơ ông để lại không nhiều, khoảng 40 bài, và Phong Kiều Dạ Bạc đã làm ông nổi tiếng giữa những thi sĩ đời Thịnh Ðường. Bài thơ như sau:

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

mà ông Trần Trọng Kim dịch ra thơ Việt là:

Ðêm đậu thuyền ở bến Phong Kiều
Quạ kêu, trăng lặn, sương rơi
Lửa chài, cây bãi, đối người nằm co
Con thuyền đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

Hình như rất nhiều người Việt Nam biết bài thơ này, cũng như nhiều thơ văn truyện tích khác của Trung Hoa, và giống nhiều người khác, tôi cũng thuộc bài thơ, cũng cảm cái khí vị man mác cô đọng trong bốn câu thơ đọc theo lối Hán Việt, không biết tự bao giờ. Nhớ khi còn học tiểu học, đọc cuốn Chân Trời Cũ của Hồ Dzếnh, có truyện ông khách trú đi đò ngang lúc trời đã tối và còn hỏi cô lái đò xin về nhà ngủ nhờ, ban đêm nhà lạ ông ngủ không được, bèn cất tiếng Quảng Ðông ngâm thơ:
Duỵt loọc ố lề sướn mán thín...

Vừa được một câu thì nghe ở buồng trong tiếng rúc rích, đó là tiếng cười cố nén lại của cô lái đò, nhưng ông khách tưởng là tiếng chuột kêu, bực mình vì mất nguồn hứng thơ phú, buông một câu: “Nhà lắm chuột thế!” dĩ nhiên bằng tiếng Tàu. Ðó là chuyện gặp gỡ lần đầu giữa cha và mẹ của Hồ Dzếnh, một nhà văn nhà thơ viết tiếng Việt Nam mang hai dòng máu Hoa Việt, nhưng cũng là lần gặp gỡ đầu tiên của tôi với bài Phong Kiều Dạ Bạc, dù chỉ mới một câu đầu và với lối phát âm Quảng Ðông, nghe không êm tai như nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên mà tôi biết về sau.

Về bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế, dù biết đã lâu nhưng vì không rành chữ Hán nên tôi chỉ hiểu nghĩa một cách đại khái theo các bản dịch sang tiếng Việt. Nhưng đối với người Việt Nam, dù hoàn toàn không được học chữ nho cũng có thể hiểu được một số chữ Hán qua âm Hán Việt, và vẫn có thể cảm ý tứ của các câu thơ chữ Hán, nếu trong đó có nhiều từ ngữ quen. Ví dụ câu nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên thì từ khi còn là học sinh tôi cũng đã hiểu được nguyệt là trăng, ô là con quạ, sương là... sương, mãn là đầy, thiên là trời. Chỉ cần biết thêm lạc là rụng, lặn, đề là kêu, cộng thiêm một chút tâm hồn thi phú nữa là có thể hiểu và cảm gần như trọn vẹn câu thơ chữ Hán đó rồi. Thành thật mà nói, tôi thấy âm vang của câu nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên hay hơn câu thơ dịch quạ kêu, trăng lặn, sương rơi, vì hình ảnh sương đầy trời (sương mãn thiên) cho một cảm giác man mác rộng lớn hơn là hai chữ sương rơi nhiều. Với lối hiểu lõm bõm như vậy, tôi nghĩ rất nhiều người Việt Nam thế hệ của tôi cảm được phần nào thơ phú chữ Hán của tổ tiên mình và của Tàu qua các bài phiên âm. Nhưng riêng câu thứ hai của bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc thì thú thật sự hiểu của tôi được chia ra làm ba thời kỳ khác nhau. Hồi nhỏ “đọc giang phong ngư hỏa đối sầu miên” thì óc tôi tự dịch ngay là gió trên sông và lửa thuyền chài tạo nên một nỗi buồn triền miên, dĩ nhiên đó là nghe sao hiểu vậy chứ đâu có biết mặt chữ nó ra thế nào. Lớn hơn một chút, đọc các bài dịch thơ Ðường thì mới hiểu chữ “giang phong” không phải là gió trên sông, mà là cây phong trên bờ sông (như Trần Trọng Kim dịch là “lửa chài, cây bãi, đối người nằm co” trên đây). Giai đoạn thứ ba là chuyến đi Trung Quốc vừa rồi, nghe người tour guide giải thích một cách khác nữa, ngay tại sân sau của chùa Hàn San. Anh ta nói rằng Giang và Phong là tên của hai cây cầu trên con sông đào sau chùa, cách nhau không xa. Ánh lửa của một chiếc thuyền chài đậu ở cầu Giang và ánh lửa ấy trên một chiếc thuyền đậu ở cầu Phong tạo nên cho người nằm trong thuyền một nỗi buồn dằng dặc trong đêm tối. Cứ cho là đến bây giờ tôi mới được hiểu câu thơ ấy một cách chính xác đi, thế thì cái “hay” của câu thơ có thay đổi gì không, qua các giai đoạn hiểu khác nhau ấy? Tôi thấy là không. Cái cảm giác buồn dằng dặc, man mác mà tác giả tạo ra nằm ở mấy chữ “ngư hỏa” và “sầu miên,” còn cái gì cộng thêm với ánh lửa ấy - cây phong trên bờ hay ngọn lửa từ một cây cầu khác - thì không làm thay đổi hiệu lực của câu thơ. Nói cách khác, nhóm từ ngữ và âm thanh ấy đã có một ma lực riêng đối với người đọc, càng trải qua nhiều thời gian thì càng thiêng, không có lối giải thích mới nào làm suy suyển đi được.
Trong sân chùa Hàn San, giữa đám du khách người Trung Quốc phần nhiều trẻ và năng động, tôi thấy một người trạc tuổi trung niên dáng rất trầm mặc, cứ ngẩng đầu quan sát các mái chùa rêu phong, hoặc nhìn ngọn cây, nhìn bầu trời như đang tìm một cái gì đó vô hình, tách khỏi sự xôn xao chung quanh. Tôi nghĩ người đàn ông Tàu ấy là người có tâm hồn hiểu biết văn học, hẳn đang tìm đâu đó hồn thơ Trương Kế từ những câu thơ mà chắc ông đã thuộc từ lâu. Ðám trẻ thì không ai có thái độ ấy, họ đi đứng nói năng nhanh nhẹn, có khi đùa giỡn ầm ĩ, ngay cả khi thắp hương lạy Phật họ cũng không từ tốn chậm rãi. Không biết trong đám họ có ai đã đọc bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc và trong lòng có niềm rung động cổ kính khi đến thăm ngôi chùa này không.
Như để trả lời cho câu hỏi của tôi, mấy tiếng chuông chùa vang lên từ cái gác chuông gần chỗ tôi đang đứng. Tôi hơi ngạc nhiên, ai mà đi đánh chuông vào giữa buổi chiều thế này? Lại cũng như để trả lời cho tôi lần nữa, tiếng chuông lại vang lên, nhưng lần này tiếng kêu rất yếu ớt. Một lát sau, chuông lại vang lên liên tiếp mấy tiếng dồn dập, có vẻ như có một lũ trẻ đang phá phách cái chuông vậy. Tôi không khỏi đưa mắt nhìn về phía tiếng chuông xem cái gì đang xảy ra, thì thấy một hàng người dài đang nối đuôi chờ lên gác chuông, và chợt hiểu: à, người ta sắp hàng để lên lầu thỉnh chuông! Và chợt hiểu luôn sở dĩ có việc này là do câu thơ của Trương Kế “dạ bán chung thanh đáo khách thuyền” (nửa đêm tiếng chuông vọng tới thuyền của khách). Công ty du lịch đã khai thác đúng lòng mong mỏi tiếng chuông của bao khách tới đây, mở ra một dịch vụ rất đơn giản: bán tiếng chuông chùa! Ai muốn tự tay mình tạo nên tiếng chuông chùa Hàn San nổi tiếng thì mua một cái vé 5 nguyên (khoảng 60 cents Mỹ), và đứng xếp hàng chờ đến lượt mình leo cái cầu thang chật hẹp để lên lầu thỉnh chuông. Lầu chuông làm biệt lập ngoài sân, nối liền với nhà chính bằng một hành lang, vì thế tha hồ bán tiếng chuông cả ngày, cứ liên tục boong boong lúc to lúc nhỏ mà không làm trở ngại gì các sinh hoạt trong chùa.

Mười ba thế kỷ trước tiếng chuông từ gác chuông này đã vang lên bay đến thuyền của thi nhân đậu đâu đó trên dòng sông sau chùa vào lúc nửa đêm, để một tiếng thơ thành hình, và từ đó ở lại luôn trong lòng bao nhiêu thế hệ đến sau. Ðời này qua đời khác, người ta đọc, ngâm nga, rung động với bốn câu ngắn ngủi đó, và ngày nay, bao nhiêu người náo nức đến đây chỉ với tấm lòng thiết tha muốn chính mắt mình thấy lại cảnh xưa, và may thay, chính tay mình lại có thể tạo nên tiếng chuông bất hủ của Trương Kế một ngàn ba trăm năm trước. Người ta xếp hàng là phải! Ðánh một tiếng chuông chùa Hàn San là gây lại một tiếng lòng mà thi nhân thuở xưa đã sống và đã giải bày, là tạo một duyên nghiệp mới cho chính mình, và biết đâu cho bao nhiêu người nghe quanh đây nữa. Tiếng chuông chùa Hàn San cả ngàn năm chỉ quanh quẩn trong bài thơ Ðường. Người Trung Hoa, người Việt Nam, người Ðại Hàn, người Nhật Bản... đời này nối đời kia thưởng thức nó nhưng mấy ai có cơ duyên được nghe nó.

Lạ lùng làm sao một ngày đầu thế kỷ 21, tôi, một người Việt Nam đã đến đây, đã cung kính cầm cái chày vồ cũ kỹ giộng nên mấy tiếng chuông. Tiếng chuông tôi đánh giữa một buổi chiều trong cái thành phố Tô Châu đang tấp nập xe cộ và người buôn bán chắc sẽ chẳng vang đi xa, nhất là chẳng vào thẳng cõi lòng ai như tiếng chuông lúc nửa đêm bay đến chiếc thuyền đang neo ở bến Phong Kiều cách đây mười ba thế kỷ. Nhưng dù sao tôi cũng đã có duyên nghe nó, và hơn nữa, tạo nên nó, cũng như tôi đã có duyên đứng sau chùa nhìn ra con sông lững lờ trôi như vẫn trôi từ nghìn xưa đến giờ, thấy cây cầu cong cong soi mình dưới nước mà tự hỏi: có phải đây là Phong Kiều, hay là Giang Kiều?

Chỉ mấy câu thơ ngắn ngủi mà cơ hồ làm thời gian ngừng hẳn ở nơi đây. Bao nhiêu người đến thăm chùa, có người từ rất xa như tôi, là chỉ để tìm cái Hàn San tự, cái lửa thuyền chài, cây cầu Phong, và tiếng chuông, mà Trương Kế đã để lại trong bài thơ. Chùa Hàn San của ngày nay chỉ là cái cớ để chúng tôi đi tìm ngày xưa. Gióng lên tiếng chuông của ngày nay cũng là chỉ để nghe lại âm thanh của ngày xưa. Nhìn dòng sông, nhìn cây cầu cũng là để từ đó tưởng tượng ra hình bóng của cây cầu xưa, con sông cũ, và ánh đèn thuyền chài buồn thiu trong đêm tối.

Tất cả chỉ vì một bài thơ tứ tuyệt!



VỀ THĂM TOLSTOI
Ở ĐIỀN TRANG YASNAYA-POLYANA

Đọc Tolstoi từ thời còn đi học, thấy cuộc đời của ông bá tước này gắn liền với điền trang Yasnaya-Polyana, thì tôi đã hình dung điền trang ấy giống cảnh trí nơi Natacha đã gặp André như đã tả trong Chiến Tranh và Hòa Bình. Nhìn lại cảnh sống ở Việt Nam từ thôn quê đến thành thị, chẳng thấy có một cái gì tương tự như điền trang của bá tước Tolstoi bên Nga. Giới địa chủ giàu có của miền Bắc và Trung Việt Nam giỏi lắm xây dựng một “dinh cơ” trong khu vườn rộng, và nếu khéo chạy một phẩm tước của triều đình thì cũng chỉ đến “bát phẩm, cửu phẩm,” vừa đủ để thỏa mãn thói háo danh nơi chốn làng xã. Các đại điền chủ Nam Kỳ thì thuộc vào đất nhượng cho Pháp, cung cách sống của họ khá xa vời với văn hóa cổ truyền Việt Nam, họ không hề mang những phẩm tước của triều đình, và dinh cơ của họ dù lớn lao cũng chẳng có vẻ gì là “điền trang” của một tầng lớp quý tộc, hiểu như là con đẻ của một định chế quốc gia, và mang nhiều tính cách đại diện cho những gì ưu tú thuộc văn hóa truyền thống của đất nước.

Hai chữ điền trang gợi cảm tưởng thơ mộng êm ả chốn thôn quê, đồng thời cũng làm liên tưởng đến tài sản đất đai rộng lớn và sự giàu sang của giai cấp quý tộc Tây phương trong quá khứ. Điền trang không chỉ là một cơ sở nhà cửa của nhà giàu ở thôn quê, mà còn là một cách sống, một quan niệm sống của một giai tầng được ưu đãi, mà lợi tức từ đất đai rất lớn lao, thường là chính yếu trong sự sản của họ.

Tolstoi là một tác giả nổi tiếng khá quen thuộc với người đọc sách Việt Nam. Ông là một văn hào Nga của nửa sau thế kỷ thứ 19 và sống thêm một thập niên đầu thếkỷ 20, tác phẩm của ông được dịch sang tiếng Pháp và theo người Pháp đi vào Việt Nam. Hồi tôi còn nhỏ, khoảng giữa thập niên 40, tôi thấy sách Tự Lực Văn Đoàn ở bìa sau thường giới thiệu các tác phẩm đã xuất bản, luôn luôn có một cuốn tên là A-na Kha-Lệ-Ninh, một quyển sách dịch của Vũ Ngọc Phan, nhưng chưa từng được nhìn thấy cuốn ấy bao giờ. Mãi sau lớn lên tôi mới biết đó là cuốn Anna Karénine (lối viết theo tiếng Pháp) của Léon Tolstoi. Có thể đó là tác phẩm lớn đầu tiên của Tolstoi được dịch sang tiếng Việt, tôi không biết thời thập niên 30, 40 của thế kỷ trước có gây tiếng vang nào trong độc giả người Việt không. Nhưng tiểu thuyết Nga nói chung, và riêng Tolstoi, tôi nghĩ là rất có duyên với người đọc Việt Nam, đặc biệt là sau khi đất nước bị chia cắt năm 1954 thì cả miền Nam lẫn miền Bắc đều có phong trào dịch và nghiên cứu tìm hiểu. Tôi nhớ hồi còn đi học, khoảng cuối thập niên 50 tôi đã đọc cuốn Viết Và Đọc Tiểu Thuyết của Nhất Linh và sau này mới nhận ra là cuốn đó có ảnh hưởng rất lớn đối với tôi. Nhất Linh đặc biệt ca tụng các tác giả tiểu thuyết Nga như Tolstoi, Dostoievsky, và các tác giả của nước Anh như các chị em Bronte. Ông cho rằng hai dân tộc này, đặc biệt là Nga, có biệt tài về tiểu thuyết, các tác giả của họ nhận xét và diễn tả cuộc đời rất trung thực và sâu sắc. Từ đó tôi để tâm tìm đọc các bản dịch Chiến Tranh và HòaBình, Anna Karenina của Tolstoi, Anh Em Nhà Karamazov, Tội Ác và Hình Phạt, Thằng Ngố...của Dostoievsky, Đỉnh Gió Hú của Emily Bronte... Quả nhiên tôi đã bị các tác giả Nga chinh phục, thời thanh niên tôi bị ám ảnh bởi Dostoievsky nhiều hơn là Tolstoi bởi lối đào sâu tâm lý như là phù thủy của ông, nhưng càng lớn lên thì càng cảm nhận được cái lớn lao thênh thang của tâm hồn cũng như tiểu thuyết của Tolstoi. Chiến Tranh và Hòa Bình là một cái gì giống như cả cuộc đời rộng khắp, đó là một cái bầu hồ lô thu tóm mọi sự, từ những cái có kích thước bé tí người thường phải dùng kính hiển vi mới nhìn thấy, đến những cảnh tượng hoành tráng của núi non, ruộng đồng, của biến cố lịch sử và ngay cả lòng người. Dostoievsky cho ta những khoái cảm rợn người của bệnh lý, của những chiều sâu thăm thẳm không thể tìm thấy trên bề mặt của cuộc đời bình thường, trong khi với Tolstoi, ta thưởng thức những bức bích họa tỏa ra đầy đủ hơi thở nồng ấm của mọi cảnh huống trong đời sống. Đọc ông xong người ta cảm thấy hai chân mình đứng trên mặt đất vững hơn, vì cuộc đời vẫn nồng đượm quanh ta...

Sau năm 1975, khi cuộc đời tù đày đã dần dần “ổn định,” nghĩa là không còn ảo tưởng được thả về trong một thời gian ngắn, hơn nữa, hoàn toàn mịt mù về ngày về và tương lai, đám đi tù bắt đầu tìm sách vở để đọc. Gia đình người đi cải tạo có một khuynh hướng chung rất dễ thương trong việc chọn sách gửi vào trại cho người thân, là chỉ gửi sách dịch của các tác giả cổ điển trên thế giới. Hầu như chẳng có một cuốn sách truyện nào của các tác giả miền Bắc, loại sách mang chủ đề “xây dựng chủ nghĩa xã hội” được sáng tác trong các “trại” viết văn, đọc thì thấy rõ mồn một sự gượng gạo giả dối nhiều khi khiến chính người đọc phải ngượng chín cả người. Một số sách dịch của miền Nam cũ cũng được chấp nhận, như các tác phẩm của Dostoievsky, của nhà văn“tiến bộ” Mỹ John Steinbeck (Chùm Nho Uất Hận...). Nhưng sách dịch của nhà xuất bản Văn Học Hà Nội mới đáng kể, đặc biệt các tác giả Nga và Liên Xô bây giờ được dịch thẳng từ nguyên bản tiếng Nga chứ không qua bản tiếng Pháp hay tiếng Anh như miền Nam trước kia.

Vì Tolstoi được Lenin cho là “viên đá tảng” của văn học Nga nên nhà xuất bản Văn Học ở Hà Nội đã giới thiệu ông rất kỹ. Tôi được đọc cuốn Hồi Ký của Tolstoi, trong đó có một chi tiết tôi nhớ mãi đến bây giờ: khi nhớ về thời thơ ấu, hồi ức của Tolstoi vươn tới một điểm xa không ngờ, ông nhớ được cái cảnh và cái cảm giác người ta tắm cho ông trong một thau nước, khi ông mới được sáu tháng tuổi. Tôi cũng thường hay cố hình dung những gì xa nhất trong đời mình mà mình còn nhớ được, thì tôi đoán ký ức của tôi có thể lộn về giỏi lắm là khoảng tôi lên bốn tuổi, trước đó thì hoàn toàn u mê mịt mờ... Có thể Tolstoi là một trường hợp đặc biệt, não bộ và thần kinh ông được cấu tạo khác thường nên đến khi lớn lên vẫn hiện ra những hình ảnh và cảm giác của con người lúc còn rất non nớt.

Dĩ nhiên là họ dịch Chiến Tranh và Hòa Bình, do một nhóm đến bảy tám người phụ trách, chia nhau mỗi nhóm dịch một phần. Chính vì làm việc riêng rẽ như vậy nên bản dịch không được thống nhất, văn phong mỗi cuốn mỗi khác nhau, chỗ hay chỗ dở không đều, thậm chí có khi cùng một nhân vật mà ở đoạn đầu gọi cha mẹ là “bố mẹ,” đến đoạn sau lại gọi bằng “ba má,” và giọng văn khi thì thiên về ngôn ngữ miền Bắc, khi thì miền Trung vùng Huế. Điều này cho thấy đối với các tác phẩm văn học lớn và dài hơi không nên chia ra mỗi người hay mỗi nhóm lãnh dịch một phần, vì khi ráp lại sự khác biệt ở mỗi phần sẽ lộ ra rất rõ, dù là có thể có người nhuận sắc lại toàn bộ nhưng chắc chắn không thể xóa đi bản sắc của từng người dịch. Về phương diện này, tôi thấy bản dịch Chiến Tranh và Hòa Bình của Nguyễn Hiến Lê ở miền Nam nghiêm túc hơn, và chắc đó cũng là lý do cách đây vài năm Sài Gòn in lại tác phẩm này thì chọn bản dịch của Nguyễn Hiến Lê chứ không dùng bản của nhà xuất bản Văn Học.

Vì ảnh hưởng của Tolstoi đối với tôi sâu đậm và dài lâu như vậy nên khi đến Nga vào mùa hè năm 2000, nghe nói có thể đi thăm điền trang của ông thì tôi vội sắp xếp thì giờ để thực hiện chuyến đi mà trong thâm tâm tôi coi như một cuộc “hành hương.”

Từ Mạc Tư Khoa đi về hướng nam độ 200 cây số thì đến thành phố Tula, từ Tula theo một con đường nhỏ rẽ về hướng tây độ vài mươi cây số nữa thì đến Yasnaya Polyana, điền trang của Tolstoi. Chúng tôi thuê một chiếc tắc xi từ ngày hôm trước, hẹn đúng bảy giờ sáng hôm sau đến đón. Tài xế tắc xi là một người đàn ông trung niên Nga cao lớn phương phi, chỉ biết nói vài tiếng Anh, mọi chuyện giao thiệp đều do anh Nguyễn Minh Cần là người “bảo trợ” cho tôi trong chuyến Nga du này. Xe chạy xuyên qua thành phố thủ đô giờ đi làm buổi sáng nhưng không hề bị kẹt đường, xe cộ ở đây chưa đến độ quá tải như nhiều đô thị khác trên thế giới. Ra khỏi thành phố, xa lộ chạy giữa một vùng đồng quê rộng rãi phong quang, đặc biệt ít thấy cảnh làng mạc, có lẽ vì đất ở đây rộng quá, xen vào những cánh đồng thường là rừng.

 Bên mộ Tolstoi: Tác giả (trái) và người tài xế taxi từng đóng vai Nga Hoàng trong phim Chiến Tranh và Hòa Bình từ tiểu thuyết cùng tên của Tolstoi, do Liên Xô sản xuất.

Anh Cần ngồi phía trước cạnh bác tài, hai người trao đổi chuyện trò suốt chuyến đi, và chỗ nào lý thú thì anh Cần dịch cho chúng tôi nghe, và chúng tôi thỉnh thoảng cũng góp chuyện (“chúng tôi” đây gồm có tôi và một người bạn nữa cùng đi với tôi từ Mỹ sang). Bác tài cho biết ông ta chưa đi đến điền trang của Tolstoi lần nào, nhưng tỏ ra biết về tác giả này khá nhiều. Trong một tuần lễ ở Nga, tôi để ý những hiệu sách vào giờ tan sở buổi chiều thường đông nghẹt người, điều đó chứng tỏ người Nga rất chú ý đến sách vở. Anh Cần cũng cho biết “người Nga họ ham đọc sách lắm, trình độ đọc nói chung khá cao, và họ cũng ham thích các môn nghệ thuật khác.”


 Phòng ăn trong dinh thự của Tolstoi. Từ trái: Tác giả, anh Nguyễn Minh Cần, người tài xế taxi

Vậy việc ông tài xế tắc xi nói về tác phẩm Tolstoi thì cũng không có gì lạ, cũng giống như một người Việt Nam có học nói về truyện Kiều hay Nhất Linh, Khái Hưng. Nhưng vẫn có điều lạ ở người tài xế này, một chuyện rất thú vị có liên quan đến Tolstoi, và duyên đưa đẩy thế nào hôm nay lại là người lái xe đưa chúng tôi đi thăm nhà của văn hào. Ông ta nguyên là diễn viên điện ảnh, do có vóc dáng rất oai vệ nên thường đóng các vai vua chúa, quý tộc, chức sắc tôn giáo, và chính ông đã thủ vai Nga hoàng trong phim Chiến Tranh và Hòa Bình quay từ tiểu thuyết cùng tên của Tolstoi do Liên Xô sản xuất trước đây. Sau cuộc đổi đời của Liên Xô hồi đầu thập niên 90, ông rời điện ảnh, và bây giờ kiếm sống bằng nghề tắc xi. Tôi hỏi ông đã xem phim này do Mỹ sản xuất chưa, ông trả lời đã xem, và cho rằng phim Mỹ thực hiện khá đầy đủ các hình thức của đời sống Nga, nhưng phần tâm hồn Nga thì không thể hiện được bao nhiêu. Tôi tự nhủ về Mỹ thế nào cũng phải tìm cuốn phim Chiến Tranh và Hòa Bình do Liên Xô sản xuất, để xem có nhận ra ông Nga hoàng lái tắc xi này không, nhưng đã một năm rưỡi trôi qua, ý định của tôi vẫn chưa được thực hiện.

Đọc tiểu thuyết Nga tôi thường gặp địa danh Tula, hình như trong Chiến Tranh và Hòa Bình cũng có, nên khi xe đến thành phố này tự nhiên tôi có cảm tưởng quen thuộc lắm. Phố xá chẳng lấy gì làm diêm dúa và cũng không mang một phong cách đặc biệt nào, vì thế dễ cho người ta cảm tưởng đã bắt gặp một lần ở đâu đó. Vì tài xế không biết rõ đường về điền trang Yasnaya Polyana nên chúng tôi được dịp đi xuyên theo suốt chiều dài của thành phố, để rồi phải quay trở lại mới tìm ra đúng đường. Đó là một thành phố kỹ nghệ khá lớn, chuyên về sản xuất vũ khí, đường sá xưa cũ và bụi bặm, và chính điểm này đem lại một cảm giác gần gũi cho một du khách Việt Nam. Nhưng khi vào đường nhỏ về thôn quê thì khác hẳn, cảnh hai bên đường xanh tươi thơ mộng, càng đi càng vào sâu với thiên nhiên, bỏ lại ồn ào bụi bặm phía sau.

Tôi đã đọc đâu đó là cổng của điền trang Yasnaya Polyana hai bên có hai cái tháp, nên khi nhìn thấy là tôi biết ngay đã đến nơi, mặc dù hai cái trụ cổng vĩ đại ấy theo tôi không phải là hai cái tháp. Đó chỉ là cái trụ cổng làm giả hình tháp, hay đúng hơn, hình cái điếm canh, to lớn, vững chắc, hơi nặng nề theo phong cách Nga. Hai trụ cổng chỉ đóng vai trò đánh dấu ngõ vào, không có cửa đóng, nhưng khi du khách vừa qua khỏi cổng thì có bảng chỉ dẫn ghé vào một cái ki-ốt nhỏ bên tay trái để mua vé, vì điền trang này từ lâu đã được nhà nước quản lý như là một bảo tàng về Tolstoi. Có vé rồi thì mọi người có thể thong dong đi dưới hàng cây cao bóng mát để dần vào phía bên trong, càng đi càng thấy như mình đang lần hồi ngược đường vào quá khứ. Viện bảo tàng nào chẳng là nơi cất giữ quá khứ, nhưng điền trang Yasnaya Polyana là một quá khứ sống, cây cối vẫn rì rào, ao hồ vẫn gợn sóng, và những dấu vết thuộc đời sống của nhà văn hào vẫn còn lưu giữ khắp nơi đúng như lúc ông còn sinh thời.

                   Buồng tắm ao lộ thiên của Tolstoi 

Anh Cần kéo chúng tôi xuống bờ ao xem một cái nhà tắm lộ thiên cất nửa trên đất nửa dưới nước, vây quanh bằng những tấm phên có lẽ đan bằng một loại cây leo. Bên trong, từ trên sàn gỗ có một cái cầu thang bắc thẳng xuống nước để người đi tắm có thể xuống ngâm mình dưới ao mà vẫn được các tấm phên che gió. Đó là nơi tắm ao trong mùa đông của Tolstoi. Tôi lấy làm lạ cho cách tắm này, mùa đông Nga thì hẳn nhiên lạnh lắm, vậy sao người ta vẫn có nhu cầu ra tắm ngoài trời? Trong điền trang mênh mông này có khá nhiều ao hồ, những nơi mà Tolstoi đã tắm táp bơi lội suốt đời, từ khi còn niên thiếu cho đến khi râu tóc đã bạc phơ. Năm ông sáu mươi tuổi, một lần nhà văn trẻ Anton Tchekhov đến thăm ông, đã thấy ông nhảy ùm xuống nước bơi nhẹ nhàng, tóc và râu bạc nổi lềnh bềnh trên làn nước xanh. Nội cái việc tắm của Tolstoi thôi đã cho chúng ta biết thế nào là nếp sống nơi điền trang. Thật ra, điền trang cũng tức là thôn quê, dù là thứ thôn quê quý tộc, sinh hoạt nơi thôn dã về căn bản thì vẫn giống nhau. Nhất là cái việc bơi lội dưới sông dưới hồ — một hình thức sinh hoạt con người hòa lẫn vào với thiên nhiên nhiều nhất — thì dù anh nông nô hay ông bá tước thì vẫn mình trần như nhộng, cùng làm nhữngđộng tác lặn hụp giống nhau. Phải chăng sự kiện đã sinh ra, lớn lên và sống gần trọn đời tại nơi này đã góp phần vào tư tưởng nhân đạo, bình đẳng của Tolstoi?

Qua một cánh rừng thì bắt đầu thấy thấp thoáng tòa dinh thự đàng xa. Vừa thấy ngôi nhà to lớn ấy, tự nhiên những hình ảnh đã đọc trong Chiến Tranh và Hòa Bình ùn ùn kéo về đầy cả tâm trí tôi, tựa hồ cuốn sách ấy chính là cuộc đời vây quanh tác giả của nó vậy. Nhiều người trong gia đình và cả chính ông nữa, đã được Tolstoi mô phỏng để xây dựng nhân vật, thì cái điền trang này cũng vậy, đã xuất hiện nhiều lần trong tiểu thuyết của ông.

Năm Tolstoi mười chín tuổi thì anh em ông bắt đầu chia gia tài, và chính ông xin phần hoa lợi kém nhất, là điền trang này và một số ruộng khoảng một ngàn rưỡi hecta với hơn ba trăm nông nô, và chàng thanh niên trong một thời gian đã tự mình cai quản dinh cơ ruộng đất với quan niệm sống một đời lành mạnh đạo đức gần thiên nhiên. Ngôi nhà mà chàng đã sống là một tòa biệt thự rất lớn bâygiờ vẫn còn nguyên vẹn, kiểu cách tương đối giản dị, có lẽ để hợp với cảnh thôn quê. Quanh nhà chỉ có vài bãi cỏ chứ không có vườn tược trồng hoa hay cây ăn trái, và tiếp đó là rừng.

Ở cửa vào Bảo tàng — tức là vào nhà Tolstoi — người ta để một đống dép bằng da sống, kích thước rất to, khách cứ để nguyên giày mà đi thêm dép trước khi vào thăm bên trong, chắc là nhằm bảo vệ sàn nhà. Hình thù những đôi dép khá đặc biệt, to bè bè và rộng thênh thang, nhưng có giây rất dài để có thể quấn quanh mắt cá chân mấy vòng và buộc lại thì rất chắc, không dễ sút ra như người ta tưởng. Tôi có cảm tưởng những đôi dép này là nhái theo kiểu của nông dân Nga, để tạo cho cuộc viếng thăm của khách một cung cách thôn dã. Vào thăm trong nhà phải mua vé, và người ta còn cho biết nếu muốn chụp ảnh thì phải trả thêm năm chục rúp nữa.

Tòa nhà được giữ gìn nguyên vẹn như hồi còn Tolstoi, vào thăm trong nhà tức là thăm đúng cái không gian sống của ông. Cách bài trí sang nhưng không xa hoa kiểu cách. Nhìn những hình ảnh thân mật trong cuộc sống của nhà văn, như phòng ăn, tủ sách, bàn viết, giường ngủ... người ta cảm thấy như mọi cái vẫn còn giữ hơi ấm của sinh hoạt hàng ngày của ông, hình ảnh ông dường vẫn ra vào đâu đây. Chứng cớ của đời sống ấy thật quá và được lưu giữ đầy đủ. Trên bàn làm việc cái ống bút và tập giấy vẫn còn đấy, như chỉ chờ chủ nhân ngồi vào sáng tác. Phòng ăn đã được bày bàn, đĩa, dao muỗng khăn ăn đầy đủ đợi ông ra dùng bữa. Và cái giường ngủ gọng đồng nhỏ hẹp của Tolstoi với chiếc gối cao, khăn trải giường chạy những hoa văn hình kỷ hà khá cổ điển, trên chiếc bàn đêm có chiếcđồng hồ nhỏ và một cây nến cháy dở, mọi thứ có lẽ y nguyên như lúc bốn giờ sáng ngày 28 tháng Mười năm 1910, là lúc ông thức dậy và bỏ nhà ra đi, lần cuối. Năm ấy ông 82 tuổi, bị nhiều dằn vặt khổ sở do bà vợ mang lại, cuối cùng quyết định bỏ
nhà ra đi, và mất ở nhà ga Astapovo ngày 7 tháng 11.

Chúng tôi không thể đi thăm hết 32 phòng trong dinh thự này, mà chỉ đến một số phòng Tolstoi đã sống, ở đó trưng bày, hay đúng hơn là còn giữ nguyên các đồ dùng hằng ngày của ông. Những phòng còn lại thì trước kia dành cho khách khứa, trong đời của ông có nhiều khách đến thăm lắm. Với tư cách là nhà văn, tên tuổi của ông vang lừng bốn bể, văn nhân tài tử đến với ông đã đành rồi, ông lại có thêm rất nhiều “đệ tử” đi theo tư tưởng nhân đạo bất bạo động của ông lui tới nhà ông liên tục. Ông nổi tiếng đến nỗi thời bấy giờ người ta gọi ông là “đệ nhị Sa-hoàng,” và điền trang của ông đã biến thành một loại tiểu triều đình vô cùng tấp nập!
                          Một góc phòng gia đình

Cách dinh cơ chính không xa là một ngôi nhà khác trước kia là trường học Tolstoi lập ra để dạy dỗ con cái nông nô. Đây cũng là một bảo tàng nữa, trưng bày nhiều thứ liên quan đến tác giả Chiến Tranh và Hòa Bình và thời đại của ông, đặc biệt có cả một cái máy ghi âm thời đầu thế kỷ 20, mà nhờ một máy khuếch âm của ngày nay, người ta có thể cho khách nghe giọng nói của Tolstoi đã được thu từ thời ấy.

Thăm nhà của nhà đại văn hào với bao nhiêu dấu vết xưa còn tồn giữ dĩ nhiên là một việc rất cảm động và hữu ích, nhưng đi lang thang trong những khu rừng trong điền trang của ông mới thật là thích thú. Cây cao vút rì rào như nước Nga từ một thế kỷ qua chẳng có gì thay đổi, những chuyện cách mạng, nội chiến, độc tài,
thanh trừng, trại tập trung, đi đày Sibérie... như là những chuyện thuộc về một thế giới khác, còn đây là cõi của Tolstoi. Tại điền trang này Tolstoi đã sinh ra, lớn lên và cư ngụ phần lớn đời của mình, nơi nhà văn hào viết nên những tác phẩm bất hủ và suy nghĩ, tự đấu tranh để tu thân và lập thuyết cứu đời. Tại đây nhà văn đã đến với Phật giáo, đã viết ra tư tưởng bất bạo động, và chính những điều ông viết đã ảnh hưởng lớn đến Gandhi, người đem thuyết bất bạo động vào đấu tranh thực tiễn.

Sau khi ông mất ở Astapovo, người ta đưa thi thể ông về mai táng tại điền trang. Điều gây bất ngờ lớn lao nhất cho một người đến thăm điền trang của Tolstoi chính là ngôi mộ ông. Nó đơn giản quá sức, đến độ như một ngôi mộ hoang, hệt như Nguyễn Du đã tả sè sè nấm đất bên đàng, rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.

Cỏ trên mộ ông thì xanh tốt chứ không có vàng (có lẽ vì chưa đến mùa thu), nhưng đúng là ngôi mộ bên đàng, và chỉ là một nấm đất đơn sơ thấp thấp, nằm ngay bên một lối đi hun hút trong rừng, dưới một tàng cổ thụ, không mộ bia, không một viên đá viên gạch. Ngoài một cái nấm nhỏ bé nhô lên khỏi mặt đất, không có một công trình nào do bàn tay con người can thiệp vào nơi an nghỉ cuối cùng của nhà văn. Ông hoàn toàn hòa nhập vào thiên nhiên quanh ông, thiên nhiên của ông nếu ta muốn đem một chút gì gọi là sở hữu vào đây. Vâng, đây là đất của ông, nên mộ ông tuy giống mộ hoang nhưng không phải là mộ hoang. Cả điền trang này là nơi ông sống và nơi ông chết, khi sống thì cả điền trang là nhà ông, khi chết thì cả điền trang là mộ ông, cần gì phải dựng bia xây mộ nữa? Những giòng chữ đại loại: Nơi đây an nghỉ nhà đại văn hào... mà đặt nơi đây có lẽ chỉ mang lại cảm giác buồn cười. Chẳng có văn hào, nhà tư tưởng nào ở đây. Chỉ có một Con Người nằm dưới gốc cây, nghe gió rì rào trong cây, và xa xa, tiếng sóng vỗ nơi vô số ao hồ. Sách vở, sự nghiệp xin để lại ngoài kia, ngoài thế giới mà loài người còn đang tiếp tục sống, để người ta đọc, người ta cười, khóc, và người ta tranh luận...

Còn ở đây, con người lớn lao ấy đang yên nghỉ.

Suốt trong mấy mươi năm nước Nga sống trong chế độ cộng sản, có thể điền trang này của Tolstoi là nơi duy nhất không có bàn tay phá phách của “cách mạng.” Sự nghiệp của Tolstoi chỉ là chữ nghĩa và ý tưởng, nhà cửa ruộng vườn và rừng cây này chỉ như là kỷ niệm ông trao lại cho đời sau, nó hiện diện nơi này như làm chứng cho cuộc đời một người luôn luôn muốn đem lại những gì tốt đẹp cho kẻ khác. Ông là một nhà văn rất lớn, nhưng hơn thế nữa, ông mang một nỗi khao khát sửa đổi thế giới quanh ông bằng những cải cách, vừa xã hội vừa trong tâm hồn con người.

Từ những dòng chữ trong Viết Và Đọc Tiểu Thuyết của Nhất Linh cho đến nước Nga và điền trang Yasnaya-Polyana của Tolstoi đối với tôi đều là những cơ duyên đầy sung sướng, có thể cách nhau rất xa trong không gian và thời gian, nhưng cũng có thể chỉ là một, tất cả chỉ dồn vào một cái chớp mắt trong lòng tôi. Nếu không có Nhất Linh liệu tôi có đến với Tolstoi như tôi đã đến không? tôi có bị thôi miên bởi ông phù thủy Dostoievsky, có cảm động say mê cơn mưa trong bình minh của Pautopsky, có trò chuyện với bác sĩ Zhivago? (1). Chuyến đi Nga của tôi ngẫm lại là một chuyện phải tới, dù là lần đầu tiên mà thực chất là một chuyến “về lại” một chốn xưa cũ của lòng tôi; riêng cuộc đi về điền trang Yasnaya-Polyana thì gọi là “hành hương”cũng được tuy là hơi có vẻ cường điệu theo kiểu tôn giáo không hợp với tạng người của tôi, hoặc gọi là về thăm một chỗ quen biết xưa thì đúng với thực chất hơn. Đứng bên mộ Tolstoi tôi cảm thấy lòng thanh thản như đối diện với một cái gì lớn lao mà giản dị, như kiểu gần một vị chân tu. Dưới tàng cây gió thổi bên cạnh nấm đất mộc mạc, tôi như tiếp xúc được toàn bộ tính chất sâu xa, khoan dung, hồn hậu của Tolstoi cũng như bao tác giả Nga khác, họ đã sinh ra, viết lách trên mảnh đất này mà tác phẩm của họ gần gũi với cả nhân loại. Đó là một khoảnh khắc lạ lùng nhất trong đời tôi. Một khoảnh khắc thiên thu.

(1) 'Trò chuyện với bác sĩ Zhivago' là tên một bài viết của tác giả.