Tuesday, August 2, 2022

Phạm Phú Minh: Bơi Qua Hồ Xuân Hương Giữa Đêm Khuya

                     

Bây giờ ở tuổi xế chiều, nhớ lại quãng đời lúc còn trẻ, tôi thấy thời tươi đẹp nhất là ba năm học Đại học Sư phạm tại Đà Lạt.

 Đậu Tú Tài 2 vào mùa hè năm 1960, tôi ghi danh vào lớp Dự Bị Văn Khoa của Đại học Sài Gòn. Học được nửa năm thì thấy Thông cáo cuộc thi tuyển vào Đại Học Sư Phạm của bộ Giáo Dục, tôi bèn ghi danh đi thi hai ban : Triết học và Anh văn. Tự thấy mình cũng đã lớn rồi, phải tìm nghề ngỗng mà sống, chứ làm sao có thể ở trong tình trạng “cơm cha, áo mẹ, chữ thầy” mãi được. Cuối cùng là đến kỳ thi, và tôi đậu vào ban Triết học. Tôi có nhận được thư thông báo là tôi phải đi Đà Lạt để học lớp Triết trên đó, năm thứ nhất bắt đầu từ niên khóa 1961-1962. Học ba năm, nếu song suốt trong các kỳ thi lên lớp và thi mãn khóa, chúng tôi sẽ ra trường vào mùa hè 1964, và nhận nhiệm sở đi dạy đầu tiên vào niên khóa 1964-65.

 Đến Đà Lạt, tôi như rơi vào cõi mộng mơ. Đà Lạt có một cảnh trí thiên nhiên tuyệt vời, không khí mát mẻ, rừng thông, hồ nước, đồi núi… giàn trải một cách hài hòa và mỹ thuật không khác nào một bức họa lớn. Khi ghi danh nhập học tại văn phòng Viện Đại Học Đà Lạt tôi có cảm giác như đang làm thủ tục để vào cư ngụ trong một cõi thần tiên.

 Tôi không xin vào nội trú trong đại học xá ở ngay trong trường, vì tôi có một nhà bà con tại thành phố này, và chú tôi, người đã đến đây lập nghiệp từ lâu, khuyên tôi ở nhà chú tôi để đi học. Tôi rất hạnh phúc khi mới tới xứ lạ, gặp được tình cảm ấm áp của bà con giòng họ như ôm ấp lấy mình.

 Ngày tựu trường, lớp tôi sĩ số khoảng 30 người, từ tứ xứ tới đây, bắt đầu làm quen với nhau. Người tôi để ý đầu tiên là Tô Văn Lai vì anh là người đỗ đầu của cuộc thi tuyển vào lớp này. Anh có vẻ rất thư sinh, quần áo chỉnh tề, ăn nói vừa điềm đạm vừa vui vẻ. Lớp chúng tôi có đến ba người tên Minh mà anh em trong lớp dần dần dựa vào đặc tính của mỗi người để đặt cho mỗi người một biệt hiệu để phân biệt. Một bạn cao lớn đẹp trai như tài tử điện ảnh, anh em đặt tên là Minh Pat Boone; một bạn khác được đặt biệt hiệu là Minh Cờ Bạc (có thể trong đời sống nội trú anh này hay tổ chức cờ bạc để giải trí chăng); còn tôi, có biệt danh là Minh Xe Lam, vì sau mấy tháng nhập học tôi được gia đình gửi tiền để mua một chiếc Lambretta cũ để đi học, vì nhà chú tôi cách trường đến sáu cây số.

 Một điểm đặc biệt của lớp chúng tôi là qua quá trình học, chúng tôi hầu như không biết sức học của nhau. Chúng tôi tới lớp nghe giảng, ghi bài giảng mang về để học. Với những vị giảng bằng tiếng Pháp, chúng tôi được phát những tập bài giảng bằng tiếng Pháp in ronéo, vì không phải ai trong đám sinh viên chúng tôi (nhất là những người học trường Việt) có thể nghe hiểu và ghi chép bằng tiếng Pháp. “Sức học” thực ra là ở cách học của mỗi người, ở công sức đọc sách tìm hiểu sâu thêm ở từng môn học, khả năng đó chìm sâu trong từng con người, không thể đem ra thi thố hơn thua ở mặt ngoài. Các giáo sư rất ít khi ra bài tập cho sinh viên. Điều này dễ hiểu, có nhiều vị giáo sư dạy tại ba trường khác nhau, là Sài Gòn, Đà Lạt và Huế, hầu như tháng nào cũng đi luân phiên như thế, việc theo dõi trình độ học vấn của sinh viên bằng cách ra đề tài để viết luận văn là một việc không thể làm được. Tôi nhớ trong ba năm học, chúng tôi chỉ một lần phải làm một bài luận triết cho Giáo sư Lê Tôn Nghiêm, vài tháng sau khi chấm xong bài được trả lại với cách cho điểm bằng bút chì A, B hoặc C, với một số nhận xét chung cho cả lớp. Cho nên “cuộc sống” của tập thể lớp chúng tôi khá vui và bình đẳng, không ai giỏi hơn ai, hay kém hơn ai. “Học lực” của mỗi người là cái chỉ có người đó (may ra) mới biết thôi.

 Tôi là dân ngoại trú, thỉnh thoảng cũng ghé vào chơi với các bạn nội trú. Các phòng trong học xá khá rộng rãi thoải mái, giường, tủ, bàn học rất tươm tất. Tôi nhớ chỗ bàn học của Tô Văn Lai trông sang hơn bàn của các bạn, vì trên bàn của Lai có một cái radio nhỏ trông rất xinh xắn. Cả học xá chỉ một mình Tô Văn Lai có tài sản ấy. Và đó, cái radio ấy, chính là đề tài một câu chuyện rất vui và gay cấn mà tôi sắp kể dưới đây.

 Vào một buổi tối mùa đông trời rất lạnh, tất cả sinh viên trong phòng của Lai đều co ro tại bàn học của mình chăm chú đọc bài vở hoặc nghiên cứu tài liệu. Bỗng dưng Tô Văn Lai với tay cầm chiếc radio giơ lên rồi nói to với tất cả anh em trong phòng : “Giờ này mà đứa nào bơi qua được hồ Xuân Hương thì tao chịu mất cái radio này để thưởng cho thằng đó.” Cả phòng đang im lìm bỗng xôn xao hẳn lên, anh em nhìn nhau để dò hỏi ai là người dám “bắt” sự thách đố này. Mấy phút trôi qua, rồi Minh Cờ Bạc đứng dậy bước ra giữa phòng dõng dạc nói : “Tao bơi !” Minh Cờ Bạc thân mình mập mạp và dáng điệu ra vẻ tay chơi, nói với cả phòng : “Tụi mày làm chứng cho vụ này nhé, tao sẽ ra bờ hồ, sang bên kia chỗ Nhà Thủy Tạ rồi từ đó bơi xuyên bề ngang của hồ, tới bến cho mướn pédalo. Nào, chúng mình cùng đi ra bờ hồ !”

 Tưởng là một thách đố khơi khơi cho vui giữa đêm trường lạnh giá, nào ngờ có người “bắt” liền, Lai thoạt tiên cảm thấy chới với. Nhưng một lời đã nói ra, bốn ngựa không theo kịp, Lai đành chuẩn bị đi ra bờ hồ với cả phòng. Các phòng khác nghe chuyện lạ, anh em sinh viên ai cũng háo hức mặc thêm áo ấm chuẩn bị đi ra bờ hồ để chứng kiến một cuộc thách đố ly kỳ chỉ có thể xảy ra trong một đêm đông Đà Lạt : có hồ để bơi, có không khí buốt giá của đêm trường, có một tập thể sinh viên đủ nghịch ngợm và chịu chơi trước một thách đố khó khăn…

 Một bạn có xe gắn máy tình nguyện chở Minh Cờ Bạc chạy thẳng ra Nhà Thủy Tạ. Đám còn lại đi bộ, mang theo nào khăn tắm, nào mền để phủ ấm cho Minh Cờ Bạc khi hắn bơi được tới bờ. Hình như không ai nghĩ tới việc Minh Cờ Bạc sẽ bị lạnh cóng giữa hồ và sẽ không bao giờ tới bến cho mướn pédalo. Ai cũng thấy đây là một trò vui hiếm có, mặc dù trong một điều kiện khá nguy hiểm.

 Khi đám đi bộ đã tới bến cho mướn pédalo thì người bạn đi xe gắn máy cũng vừa từ nhà Thủy Tạ chạy qua, cho biết Minh Cờ Bạc đã sẵn sàng, anh em bên này đã tới đầy đủ thì Minh sẽ bắt đầu phóng xuống nước. Sương mù dày đang phủ trên mặt hồ, dù quanh hồ có nhiều trụ đèn đường nhưng nhìn ra hồ chỉ thấy một khối sương trắng xóa. Cảnh tượng đó càng làm tăng thêm cảm tưởng… rùng rợn của cuộc chơi. Nhưng không một ai đưa ra ý kiến ngưng vụ thách đố này lại. Đó cũng là đặc tính của tuổi trẻ, luôn luôn đứng về phía mạo hiểm. Người đi xe gắn máy chạy vù qua Nhà Thủy Tạ để báo cho tay bơi có thể bắt đầu xuống nước.

 Cả đám đông đứng chờ bên này hồ bỗng nhiên yên lặng, im phăng phắc dán mắt vào khối sương trắng trên mặt hồ, tai lắng nghe thử có tiếng đập nước nào vang ra từ cái khối trắng xóa kia không. Thời gian như ngưng lại, một phút trôi qua như vô tận. Bao nhiêu khái niệm về thời gian vật lý và thời gian tâm lý đang thử thách đám sinh viên triết học này, giữa trời khuya, bên bờ hồ giá lạnh. Đúng là họ đang căn mắt nhìn vào đám sương mù trên mặt hồ mà bấy giờ họ thấy như là một chướng ngại thiên thu không thể nào xoi thủng được. Bao nhiêu phút đã qua ? Minh Cờ Bạc có đang làm động tác bơi lội trong khối nước lạnh kia không ? Hay là chàng ta đang bị cóng lạnh, tay chân không hoạt động được, đang chống chọi một cách vô vọng với cái khắc nghiệt của thiên nhiên ? Và biết đâu đang chìm dần xuống đáy hồ ? Cả đám người trai trẻ đứng trên bờ hồ im phăng phắc như bỗng dưng bị cấm khẩu hết. Họ chỉ biết nhìn cái khối sương mù trắng toát trên mặt hồ, từng giây, từng giây trôi qua. Bỗng một tiếng la to : “Nó kia rồi !” Rồi nhiều tiếng hỏi xôn xao : “Đâu ? Đâu ?” như “nó” chỉ là một ảo giác. Nhưng không, người ta đang nghe rõ tiếng đập nước của một người đang bơi. Nhiều tiếng thở phào của đám người đang chờ trên bờ, và họ lại thấy cuộc chơi bắt đầu hào hứng trở lại. Và một cái bóng đen đang chui ra khỏi khối sương mù và đang sãi tay tiến một cách vũ bão vào bờ. Cả đám ồ lên vui mừng. Có lẽ từ khi có thành phố Đà Lạt cho đến giờ phút ấy, chưa bao giờ có một tiếng la vang dội như thế giữa một đêm đông giá buốt trên bờ hồ này. Minh Cờ Bạc leo lên bờ như một anh hùng thắng cuộc, lập tức được trao cho một cái khăn tắm để lau mình, rồi không mặc áo quần gì cả, một cái mền bông dày quấn ngay thân thể của chàng lại, quấn kín mít để không một chút gió lạnh nào chạm được vào da thịt chàng, rồi chàng được bế lên xe, rồi tài xế chạy vù về viện.

 Hôm sau được hỏi cảm giác khi bơi trong hồ, Minh Cờ Bạc tiết lộ : “Tao không ngờ giữa đêm khuya không khí lạnh buốt như thế, mà nước hồ lại rất ấm. Gần như bơi trong một piscine nước nóng vậy thôi.”

                                                         *

 Hoạt cảnh đó đã xảy ra từ 60 năm trước. Những người tham dự “cuộc vui” trên bờ hồ Xuân Hương năm đó, có người nay đã về với ông bà, có người đã râu tóc bạc phơ. Vai chính bày ra cuộc chơi ấy năm xưa, Tô Văn Lai, nay cũng vừa lìa bỏ trần thế.

 Tại Little Saigon này, lâu nay chỉ còn ba người bạn cùng học khóa Triết năm ấy, thỉnh thoảng gặp nhau, là Tô Văn Lai, Trương Đình Tấn và Phạm Phú Minh. Nguyễn Văn Lục từ Canada một dạo lạc đường vào tình sử cũng có mặt tại vùng Nam California này một thời gian, vị chi là bốn người. Có lần tôi hỏi Tô Văn Lai về vụ thách đố đầy hồi hộp năm xưa, Lai đã nói với tôi : “Tối hôm đó đứng bên bờ hồ, tôi cảm thấy rất lo lắng và sợ, sợ thằng Minh Cờ Bạc nó chết đuối giữa hồ. Nếu việc đó xảy ra, cuộc đời của tôi không biết rồi sẽ ra sao.”

May mắn là Minh Cờ Bạc đã thắng được cái radio của Tô Văn Lai, và cuộc đời của Lai tiếp tục tươi sáng, thành công, cho đến giây phút cuối cùng.

 

Westminster 27-7-2022

 

PPM

 

Wednesday, July 6, 2022

Phạm Xuân Đài: Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà

 


Một khẩu hiệu nổi tiếng của đảng Cộng sản Việt Nam, đã có từ thời đảng còn tranh đấu cho đến khi đã đoạt được quyền hành, là :

Trí Phú Địa Hào

Đào tận gốc, trốc tận rễ

Vì câu khẩu hiệu này đi vào lịch sử đã lâu, thiết tưởng nên tìm hiểu lại nội dung muốn nói cái gì. Trí, Phú, Địa, Hào là bốn loại người trong xã hội Việt Nam xưa (trước khi có đảng Cộng sản). Trí là người trí thức; Phú là người giàu có; Địa là địa chủ, có nhiều đất ruộng; Hào là kẻ mạnh thế, có tài trí hơn người. Đào tận gốc, trốc tận rễ có nghĩa là phải tiêu diệt một cách triệt để, để cho những thành phần này không bao giờ có thể ngóc đầu lên được. Trong xã hội cộng sản tuyệt đối không còn sự hiện diện của bốn loại người này.

Đảng Cộng sản làm cách mạng xã hội, đem lại công bình cho mọi người về tài sản, về hưởng thụ nên mục tiêu của họ là phải tiêu diệt tất cả bất công của xã hội cũ. Họ phải tiêu diệt những kẻ giàu có, những kẻ có nhiều đất ruộng, thậm chí những kẻ có mạnh thế trong xã hội, cái đó có thể hiểu được, nhưng tại sao kẻ thù vào hàng số một, đứng hàng đầu trong các kẻ thù của cộng sản lại là người Trí thức ? Muốn hiểu điểm này của cộng sản thì phải biết Trí Thức là gì.

Theo Hà Sĩ Phu người Trí thức có những đặc điểm như sau :

TRÍ THỨC có ba đặc điểm, hay ba tính chất:

1/ Tính chất tự do và không ranh giới: Người Trí thức có thể đi sâu vào một lĩnh vực nhất định, nhưng không bị khoanh vùng trong lĩnh vực đó, trong quốc gia đó. Sự phân chia thành các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, văn hoá, văn nghệ, chính trị, đạo đức, kinh tế, quốc gia, quốc tế, con người, nhân loại… vân vân… đều chỉ là những sự phân chia tương đối, quy ước, tạm thời. Sự phát triển và liên tưởng của lô-gích tư duy sẽ vượt qua những ranh giới ấy.

2/ Tính chất tiên phong và phát hiện, dự báo: Bởi được trang bị bằng hai công cụ đặc biệt là kho tri thức ngàn đời của nhân loại đã đúc kết thành các khoa học và sức nhạy cảm chủ quan của bộ óc cá nhân, những người Trí thức như những “bộ máy dò” tiên phong vô cùng nhạy cảm, nó bay về muôn phương, nó cảm ứng lập tức với những cái mới, cái bất thường, nó xâu chuỗi lập tức những quan hệ tuyến tính, những quan hệ thuận quy luật và trái quy luật. Học vấn tuy là điều kiện cần thiết tất yếu cho đặc điểm này, nhưng cũng chỉ là những điều kiện làm nền, điều kiện ban đầu thôi, chưa hề đầy đủ để tạo nên Trí thức.

3/ Tính lương thiện, tính nhân văn hay tính “Người” (“người khôn ngoan” Homo sapiens): Con người là sự diễn tiến liên tục và bất tận từ con vật hoang dã hướng đến con người hoàn thiện. Trong đó, Trí thức là “bộ máy lọc”, chuyên lọc bỏ những cặn bã phi nhân tính. Sự thôi thúc của Nhân tính này khiến Trí thức cứ vơ nỗi đau của người khác thành nỗi đau của mình, mà tự làm khổ mình, tự gây rắc rối cho mình. Tất nhiên “bộ máy lọc” này cũng đang tiến hoá theo thời gian nên sự lọc này không thể thoát khỏi sự hạn chế của giai đoạn lịch sử, có thể lọc rồi sẽ lại được lọc nữa. (Trích từ bài : “Búa liềm phải chắp vá thế nào trước kỷ nguyên trí tuệ?” DĐTK 24-6-2022).

 Với ba đặc điểm như thế, Trí thức là tầng lớp bị cộng sản ghét nhất, vì họ sẽ phá vỡ nền độc tài của cộng sản. Nền giáo dục của cộng sản không đào tạo ra hàng ngũ trí thức, mà chỉ tạo nên người có học, có kiến thức chuyên môn với một đặc điểm là không được đi ra khỏi giáo điều của đảng. Họ chỉ là, phải là công cụ của đảng, không bao giờ được dùng tư duy của mình, đầu óc cuả mình mà đi ra ngoài những ràng buộc của đảng. Trước khi phong trào cộng sản bị sụp đổ, trong thế giới cộng sản đã xảy ra bao cuộc phản kháng của giới trí thức và đã bị đàn áp khốc liệt. Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm tại Việt Nam là một ví dụ của sự vùng dậy của trí thức trước gọng kìm độc tài.

Hôm nay nhân buổi hội thảo về Nguyễn Đình Chiểu, chúng ta vừa xem lại một vở bi hài kịch do một số cán bộ cầm bút của đảng cộng sản trình diễn. Sau khi mở chiến dịch lên án cụ Phan Thanh Giản là “bán nước”, chính quyền cộng sản mới khám phá ra là Nguyễn Đình Chiểu, người mà mà họ luôn hết lòng đề cao là “yêu nước”, có làm mấy bài thơ viếng rất thiết tha sau khi Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự vận. Thế là thế nào ? Người yêu nước tại sao “có quyền” thương khóc người bán nước ? Đảng không thể “cho phép” việc ấy xảy ra ! Dễ thôi, trong tay đảng thiếu gì các văn nô đang phục vụ, chỉ cần đảng búng tay một cái thì đám ấy sẽ, để phục vụ Đảng, biến trắng thành đen dễ dàng.

Nhưng ở đời, sự gian dối không bao giờ đứng vững mãi, trước sau rồi cũng bị vạch mặt. Với cuốn sách “Mối Thâm Tình của Nguyễn Đình Chiểu  dành cho ‘Quan Phan’ Phan Thanh Giản”, tác giả Winston Phan Đào Nguyên đã từng bước một vạch ra những cách giải thích vẹo vọ để những bài thơ Nguyễn Đình Chiểu khóc Phan Thanh Giản trở thành những bài chửi cụ Phan. Trong khi làm công việc này, tác giả Phan Đào Nguyên đã đưa ra ánh sáng hai điều tích cực :

·                Phản bác các “nhà nghiên cứu” đã theo chỉ thị của đảng cộng sản cố tình giải thích sai hai bài thơ Nguyễn Đình Chiểu khóc Phan Thanh Giản, từ xót thương thành chửi bới.

·       Làm sáng tỏ trở lại cá tính ngay thẳng của Nguyễn Đình Chiểu, nhất là trong văn thơ của ông, thương ghét rất phân minh. Bày đặt ra việc Nguyễn Đình Chiểu dùng chữ nghĩa để “nói cạnh nói khóe” chửi Phan Thanh Giản là hạ thấp Nguyễn Đình Chiểu, đưa ông vào cái hạng người lắt léo, xảo quyệt.

 Không, Nguyễn Đình Chiểu không phải là hạng người ấy, ông là người ăn ngay nói thẳng : “Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.”

 

Sunday, April 3, 2022

Phạm Phú Minh: Đọc TUYỂN TẬP CHÂN DUNG VĂN HỌC NGHỆ THUẬT & VĂN HÓA của NGÔ THẾ VINH

 


Thời gian bắt đầu thế kỷ 21, tác giả Long Ân trong một bài nhận định về cuốn sách mới nhất của Ngô Thế Vinh hồi đó, đã viết:

“Ở cuốn sách mới nhất của anh Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông dậy sóng, người đọc đã thấy những hóa thân Ngô Thế Vinh biến thái liên tục theo từng trang mở rộng. Ngô Thế Vinh con người xanh của môi sinh, Ngô Thế Vinh con người chính trị nhân bản, Ngô Thế Vinh con người phiêu lưu trong khu rừng già địa lý chính trị, Ngô Thế Vinh con người tiên tri lịch sử...”

Đây là một nhận định rất tinh tế và chính xác về con người viết lách của bác sĩ Ngô Thế Vinh, cho đến thời điểm 2001. Ngày nay, 16 năm sau, chúng ta có thể thêm vào các dòng chữ trên: Ngô Thế Vinh con người của văn học nghệ thuật và tình cảm bạn hữu. Ít ra, đây sẽ là những đặc tính mà người đọc sẽ tìm thấy khi đọc cuốn sách mới nhất của anh: Tuyển Tập Chân Dung Văn Học Nghệ Thuật & Văn Hóa.

Cho đến năm 2001, nhà văn Long Ân đã nhìn thấy một Ngô Thế Vinh trên “tầm vóc vĩ mô” của những vấn đề lớn như địa lý chính trị, số phận của một dòng sông dài chảy qua nhiều nước, những vận động đa quốc gia để giữ gìn sinh thái cho cả một vùng Đông Nam Á v.v... với một hùng tâm hùng khí không bao giờ lùi bước và một tài năng sắc bén cùng một tấm lòng thiết tha không lay chuyển. Nhưng 16 năm sau, vào cuối năm 2017, với tác phẩm mới nhất của mình, có thể nói Ngô Thế Vinh đã lần đầu tiên đưa ngòi bút vào lãnh vực “vi mô” : chân dung văn học nghệ thuật và văn hóa của từng con người cụ thể với tất cả các nét tế vi của lãnh vực này.

Tác giả đã trình bày “chân dung” của 18 người, trong đó 16 vị thuộc lãnh vực Văn học Nghệ thuật: 1 Mặc Đỗ, 2 Như Phong, 3 Võ Phiến, 4 Linh Bảo, 5 Mai Thảo, 6 Dương Nghiễm Mậu, 7 Nhật Tiến, 8 Nguyễn Đình Toàn, 9 Thanh Tâm Tuyền, 10 Nguyễn-Xuân Hoàng, 11 Hoàng Ngọc Biên, 12 Đinh Cường, 13 Nghiêu Đề, 14 Nguyên Khai, 15 Cao Xuân Huy, 16 Phùng Nguyễn và hai vị thuộc dạng “Chân dung Văn hóa” là Phạm Biểu Tâm và Phạm Hoàng Hộ.
Dùng hai chữ Chân Dung để đặt tên cho loạt bài viết này của mình, Ngô Thế Vinh đã sáng tạo ra một cách viết mới cho một số nhân vật mà anh lựa chọn. Quyển sách này không thuộc loại phê bình văn học như Nhà Văn Hiện Đại của Vũ Ngọc Phan, hoặc Thi Nhân Việt Nam của Hoài Thanh Hoài Chân, không, anh không đặt mục tiêu và trách nhiệm của mình rộng đến thế. Trước hết anh không phải là nhà phê bình văn học hay nghệ thuật, anh chỉ tạo nên những “chân dung”, theo cách của mình. Một trong những điều kiện đầu tiên để tác giả làm việc này là người được giới thiệu phải là người quen thân của anh, nói đơn giản là bạn anh. Và chúng ta cũng có thể hiểu bạn bè ở đây phần lớn bắt nguồn từ các sinh hoạt văn học nghệ thuật và văn hóa mà có. Tình bạn ấy không chỉ thuần túy là tình cảm thân thiết giữa hai cá nhân như thường tình, mà trong đó còn lẫn lộn các tác phẩm văn chương hay hội họa, phong cách sáng tác, ý hướng sáng tạo hay con đường hoạt động của mỗi người. Tình bạn ấy có lẫn sự ăn ý của đôi bên về một phạm vi cao hơn, xa hơn chỉ là một giao tiếp xã hội.
Với tiêu chuẩn đầu tiên như thế con số các nhân vật được đưa ra giới thiệu sẽ rất hạn chế, không thể đại diện cho một cộng đồng hay một thời đại, tuy thế, các chân dung được đưa ra cũng đủ lớn để phủ bóng một vùng khá rộng trong cái lãnh thổ văn hóa nghệ thuật mà tác giả đã lăn lộn trong ấy từ thời còn rất trẻ cho đến tuổi xưa nay hiếm, từ mảnh đất Việt ngàn xưa cho đến thế giới rộng lớn ngày nay.
Định xong đối tượng, phương pháp của tác giả sẽ như thế nào để họa cho được một chân dung? Thật ra thì chẳng có một phương pháp cố định nào, lối giới thiệu nhân vật của Ngô Thế Vinh có lẽ tùy thuộc vào cái tâm cảnh của mình đối với một người bạn nào đó. Nhưng có một nguyên tắc vững chắc mà tác giả đã luôn luôn giữ trong cách viết từ trước đến nay, là nghiên cứu rất kỹ những tác phẩm của người mình định giới thiệu, tìm kiếm thật đầy đủ những ý kiến khen chê của phía người thưởng ngoạn, và một điều dĩ nhiên phải có, là vận dụng rất nhiều những kỷ niệm, ký ức có ý nghĩa của riêng mình đối với người ấy. Tôi cho những giao tiếp riêng tư, mà tác giả dùng chữ “giao tình”, có vai trò quan trọng trong việc cấu tạo nên quyển sách này, đó là chất keo sơn rất bền chặt kết dính mọi nghiên cứu khách quan khác mà tác giả thực hiện một cách luôn luôn nghiêm túc.
Một mặt khác về tài liệu, phần hình ảnh đóng một vai trò rất quan trọng, mà tôi nghĩ nếu không có “giao tình” với người mình để tâm nghiên cứu thì cũng khó mà được đầy đủ như thế. Hình ảnh là một điểm son của cuốn sách này, đối với nhân vật nào Ngô Thế Vinh cũng đưa ra rất nhiều hình ảnh mà càng lâu về sau càng trở nên quý giá: hình ảnh các bìa sách, các họa phẩm, các thư từ trao đổi hầu hết là thủ bút, những buổi gặp gỡ giữa các bạn văn nghệ, hoặc các hình ảnh có ý nghĩa lịch sử sưu tập được. Qua các hình ảnh này, người đọc được xem những buổi họp mặt của giới văn nghệ, trong đó có những nhân vật lâu nay nghe tiếng mà chưa biết hình dung, và cũng qua đó biết được sự giao du và tình quý trọng của giới văn học nghệ thuật đối với nhau như thế nào. Đó là chưa kể phần hình ảnh có tính cách tài liệu, nhất là những gì còn tìm được sau trận hỏa thiêu sách vở mịt mù khói lửa tại miền Nam từ sau 1975. Khác xa với các sách biên khảo phê bình từ thời trước 1945, thậm chí trước 1975, quyển sách này chứa đầy hình ảnh phần lớn mang màu sắc nguyên thủy, đó là một ưu điểm đặc biệt của thời đại ngày nay nhưng không phải tác giả biên khảo nào cũng đạt được đến số lượng, phẩm chất của tài liệu hình ảnh mà Ngô Thế Vinh thực hiện được trong quyển sách này. Kho hình ảnh này dĩ nhiên mang giá trị rất lớn cho công việc nghiên cứu trong tương lai.

*

Dĩ nhiên khi trình bày “chân dung” của một người bạn, không ít thì nhiều đều có ẩn hiện chân dung của chính tác giả. Đó là điều không tránh được, và cũng không cần phải tránh. Nếu chúng ta cố tìm một nơi nào hình bóng tác giả in đậm nhất, linh động nhất và có thời gian lâu dài nhất thì đó là bài viết về Người Bạn Tấm Cám Nghiêu Đề. Viết về Nghiêu Đề, những dòng chữ của Ngô Thế Vinh giống như là hồi ký về một quãng đời của chính mình.
Bước vào năm đầu y khoa, thay vì như các bạn đồng khoá tập trung vào học tập, tôi đã không được gương mẫu như vậy, sớm say mê chuyện viết lách làm báo và cả rong chơi với giới nghệ sĩ nhóm bạn Nghiêu Đề. Rất khác nhau nhưng không hiểu sao tôi và Nghiêu Đề lại có thể thân nhau đến như vậy. Nghiêu Đề có nếp sống lang bạt, có nhiều bạn tấm cám từ thời còn rất trẻ, xóm Bùi Viện gần ngã tư quốc tế là khu giang hồ nơi chúng tôi thường lui tới lúc đó, họ tiềm ẩn tài năng nhưng còn như những “viên ngọc ẩn thạch”...
Ngô Thế Vinh viết về Nghiêu Đề với một văn phong khác lạ, dường như đang chạm vào một vùng êm ái và đáng yêu của đời mình, ở giai đoạn vừa xông vào đời với những mộng mơ, bên cạnh người bạn có cá tính khác mình nhưng như một bổ túc, bù đắp cho chính mình. Nói về tiểu thuyết Vòng Đai Xanh viết vào thời kỳ khai phá sung mãn ấy, Ngô Thế Vinh đã hé lộ cho chúng ta thấy vai trò của người bạn Nghiêu Đề đã được khẳng định rất sớm trong cuộc đời của tác giả, đến độ như “mình với ta tuy hai mà một”:
Triết nhân vật chính trong tiểu thuyết Vòng Đai Xanh, một hình tượng văn học, nguyên gốc hoạ sĩ sau trở thành phóng viên chiến trường có bóng dáng Nghiêu Đề trộn lẫn với cái tôi của tác giả.
Nghiêu Đề, một người bạn thân thiết xuất hiện khá sớm trong đời Ngô Thế Vinh tại cái xóm báo chí Phạm Ngũ Lão Sài Gòn năm xưa, cho đến những ngày cuối cùng của “người bạn tấm cám” này tại vùng Nam California trên đất Mỹ, tình bạn của họ không suy suyển trải qua quá nhiều biến cố đổi thay của đất nước và của thời đại. Bài viết về Nghiêu Đề đúng là một bức chân dung thật sự về cá tính, tài năng và cuộc đời của một họa sĩ đầy phiêu lãng, chính là một tài liệu quý hiếm về nhân vật này, mà tôi nghĩ, ngoài Ngô Thế Vinh sẽ không một người nào có thể thực hiện được đầy đủ và sâu sắc như thế. Không phải là bạn thiết từ thời trẻ tuổi, thấu hiểu nhau qua từng giai đoạn của đời sống thì tác giả không thể đặt những nhát cọ cuối cùng cho bức chân dung như một kết luận về tính cách của Nghiêu Đề như thế này:
Không tự ràng buộc vào những quy ước thông tục của đời sống, dễ nhìn Nghiêu Đề như một người phóng giật hay buông thả bất cần đời, anh hoà nhập với mọi người nhưng lại hàm chứa vẻ cao ngạo với chính anh chứ không với ai khác. Là người bạn đôn hậu, không hề cay độc nhưng lại rất cynical, Nghiêu Đề vẫn hồn nhiên gọi chó là đồng loại. Nói như Oscar Wilde: “Anh là mẫu người biết giá của mọi thứ, nhưng không có gì giá trị đối với anh / A man who knows the price of everything and the value of nothing”.

*

Một tình bạn khác cũng rất đặc biệt, vì với một người khác phái và hơn một thập niên cách biệt về tuổi tác, mà chúng ta thường gọi là bạn vong niên : nhà văn Linh Bảo.
Tôi thấy, một cách khách quan, viết giới thiệu Linh Bảo là một việc cần thiết, vì sự xuất hiện của bà trên văn đàn Việt Nam tương đối ngắn ngủi và tác phẩm không nhiều, nhưng đó là cái ngắn ngủi của một ngôi sao băng xẹt ngang bầu trời. Tác phẩm Tàu Ngựa Cũ của bà được trao Giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc năm 1961.
Ngô Thế Vinh đã sưu tầm được những lời đánh giá “có tầm lịch sử” về tài văn chương của Linh Bảo mà anh gọi là “Rất tình cờ từ ba địa phương, cả ba tác giả Bắc Nam Trung đều có chung một nhận định: Linh Bảo là một cây bút có văn tài. Linh Bảo viết không nhiều, nhưng tác phẩm nào cũng đặc sắc”.
Ba tác giả Bắc Nam Trung ấy là Nhất Linh, Bình Nguyên Lộc và Võ Phiến với lời lẽ của họ trích từ bài viết của Ngô Thế Vinh :
Chính Nhất Linh là người khuyến khích và hướng dẫn Linh Bảo vào con đường viết văn. Trích đoạn bức thư của Nhất Linh viết từ Sài Gòn ngày 29 tháng 5 năm 1953 gửi Linh Bảo khi ấy vẫn còn ở Hương Cảng với tên Lại Cẩm Hoa :

Kính gửi chị Hoa,

Tôi đã nhận được cuốn Gió Bấc và đã đọc hết. Khá lắm và hay hơn lần viết đầu. Xin gửi lời khen chị. Các nhân vật quốc nội và hải ngoại cũng rõ ràng linh hoạt hơn, đoạn kết cũng rất khéo và vừa vặn.
(...)
Chị đã có cốt cách nhà văn, cứ thế mà tiến, yên tâm mà tiến, còn nhiều rực rỡ về sau đợi chị. (...)
Nhất Linh

Còn Bình Nguyên Lộc nhà văn đất Nam Kỳ thì bộc lộ các nhận xét rất độc đáo của mình về văn chương Linh Bảo qua bức thư sau:

Sài Gòn 21/9/1958
Chị Linh Bảo,
Hôm nọ tôi có đến thăm chị nhưng chị đi vắng...
Một điều sau đây tôi được biết, nói ra sợ chị không tin nhưng không thể không nói được: là rất nhiều bạn văn, bên phe không cọng, nói với tôi rằng các tiểu thuyết đăng ở Văn Hoá Ngày Nay chỉ có tiểu thuyết của Linh Bảo là hay. Họ không nói là hay hơn hết mà chỉ nói là hay thôi. Thế nghĩa là còn hơn là hay hơn hết nữa kia.
Riêng tôi, tôi thấy chị hay hơn Gió Bấc nhiều lắm [Bình Nguyên Lộc muốn nói tới tiểu thuyết Những Đêm Mưa, đang đăng định kỳ trên Văn Hoá Ngày Nay, ghi chú của người viết] và giọng văn của chị đã rõ nét ra, một giọng văn mà ba mươi năm nữa chưa chắc đã có người làm theo được...
Tôi ngạc nhiên lắm. Bề ngoài chị rất là đờn bà, nhưng sao văn chị như văn đờn ông thế. Đọc xong bốn kỳ Những Đêm Mưa, tôi ngán sợ chị ghê lắm, sợ cái tài quan sát nội tâm và ngoại cuộc của chị rất là bất ngờ, mà nhất là sợ cái cười bình thản của chị vô cùng. Sợ đây không phải là phục.
Đành là phục rồi, khỏi phải nói, mà sợ bị chị quan sát và cười, mặc dầu chỉ cười thầm thôi...
Bình Nguyên Lộc
Và sau cùng là nhận xét của Võ Phiến, cây bút miền Trung, trên tạp chí Bách Khoa [số 161, năm 1962]:
"Trong số những người đàn bà viết văn ở ta hiện nay, có lẽ Linh Bảo có tài nhất: có tài quan sát, lại có tài diễn tả một cách thông minh những điều mình quan sát. Quan sát và phân tích tâm lý, Linh Bảo đã trình bầy được mỗi nhân vật với một hình dạng, một cá tính rõ ràng, một lối sinh sống và ăn nói riêng biệt... Linh Bảo thường hay tìm ra cơ hội để làm người đọc mỉm cười, dù là trong những trường hợp buồn thảm: nhà ngập lụt, vợ chồng giận nhau. Giữ được nét mặt tươi tắn cả trong khi buồn, đó là một lối làm đẹp rất khéo của đàn bà, nhất là đàn bà 'lịch sự': vì vậy mà cái cười do Linh Bảo gợi lên lắm lúc có chua chát, người đọc vẫn dễ có cảm tình với giọng văn của tác giả."
Như vậy, Linh Bảo dù viết ít và trong một thời gian không dài, nhưng tài năng của mình đã được xác nhận bởi ba vị mà vai vế và uy tín của họ trên nền văn học Việt Nam cận và hiện đại đã là những bảo chứng rất chắc chắn. Và điều quan trọng là đã có người sưu tầm và đề cập đến trong một bài viết rất đầy đủ về phương diện tư liệu lẫn hiểu biết cá nhân.
Riêng cá nhân người viết bài này cũng được quen biết với nhà văn Linh Bảo qua sự giới thiệu của anh Ngô Thế Vinh. Năm 2002 tôi làm chủ bút tạp chí Thế Kỷ 21 ở miền Nam California, quyết định tháng Bảy năm ấy sẽ làm một số đặc biệt về Nhất Linh, và kêu gọi văn hữu khắp nơi đóng góp bài vở về chủ đề này. Một hôm anh Ngô Thế Vinh gọi cho tôi, cho số điện thoại của chị Linh Bảo và gợi ý tôi nên liên lạc xin chị viết cho một bài về Nhất Linh. Tôi làm theo và quả nhiên được chị Linh Bảo nhận lời. Bài của chị được đăng trên báo Thế Kỷ 21 số 159 đặc biệt về Nhất Linh và sau đó hai năm in trong cuốn sách Nhất Linh Người Nghệ Sĩ Người Chiến Sĩ do Thế Kỷ xuất bản.
Sau đây là một số trích đoạn của bài viết có liên quan đến chỗ khởi đầu văn nghiệp của nhà văn Linh Bảo, cũng là chút kỷ niệm giữa chị Linh Bảo, anh Ngô Thế Vinh và người viết bài này, xin phép gửi ké vào đây :

BÀI HỌC “NHIỆT THÀNH”
LINH BẢO

Kính gửi anh Minh,
Trong lúc tôi đang “vui thú điền viên” nghĩa là tưới cây cỏ ở vườn sau thì nhận được điện thoại của anh. Mở đầu anh nói ngay là do anh Ngô Thế Vinh giới thiệu. Anh Vinh là người bạn từ 40 năm trước. Với thân tình ấy, nghe anh bảo viết một bài cho số Thế Kỷ 21 đặc san về Nhất Linh, làm tôi không biết “ca bài con cá” ra sao.
Thú thực tôi sống ở nước ngoài nhiều hơn ở trong nước nên kỷ niệm với tiền bối Nhất Linh rất ít. Nếu nói thế để từ chối thì anh sẽ trách tôi tránh né và anh Vinh cũng sẽ không vui.
Sau khi nghĩ kỹ, tôi viết thư này cho anh cố tìm kiếm soi mói ký ức xem có gì liên hệ đến anh Nhất Linh kể hết cho anh biết, rồi tùy anh muốn bắt muốn tha sao cũng được.
(...)
Qua một bà bạn Việt Nam, tôi được quen anh Trương Bảo Sơn và chị Nguyễn Thị Vinh. Anh chị rất thương mến tôi coi tôi như em gái, săn sóc đủ mọi thứ. Nhờ thân tình ấy tôi đưa cho chị Vinh xem tập nhật ký của tôi viết, kể lại cuộc sống của sinh viên Việt Nam tại Trung Sơn Đại Học ở Quảng Châu.
(...)
Tập nhật ký nhỏ ấy tôi gọi là Gió Bắc, vì tôi bị suyễn nặng từ bé, và mỗi khi gió Bắc thổi thì cơn hen suyễn lại nổi lên thảm khốc.
Chị Vinh đọc xong Gió Bắc cho là thú vị nên cho anh Nhất Linh đọc. Nhất Linh bảo tôi viết lại thành truyện ở ngôi thứ ba đừng giữ lối viết Nhật ký. Vì thời ấy độc giả chưa quen nghe “cái tôi” bất cứ tác giả nào. Anh Nhất Linh cũng đề nghị đổi tên Gió Bấc hay hơn chữ Gió Bắc tôi đã dùng.
Tôi làm theo lời anh và Gió Bấc, cuốn truyện đầu tay của Linh Bảo ra đời.
(...)
Việc Gió Bấc đầu tay được Nhất Linh xuất bản là một bất ngờ cho tôi. Chủ tâm tôi chỉ ghi lại như một nhật ký chứ không nghĩ xa hơn. Nếu không có một Nguyễn Thị Vinh hào phóng, khuyến khích, nâng đỡ giới thiệu bước đầu thì chắc không có Linh Bảo.
(...)
Tôi còn nhớ lần đầu tiên được ngồi ăn phở với anh chị Sơn Vinh và anh Nhất Linh, tôi có một cảm khái đặc biệt. Ngày xửa ngày xưa, lúc còn bé con ở nhà đọc Phong Hóa, Ngày Nay, đọc các sách của anh Nhất Linh, xem anh như một bậc thầy rất xa vời... Thế mà không ngờ trong đời có lúc được cùng ngồi ăn chung một bàn... Nhìn tay anh cầm đũa run run, tôi ngờ rằng sức khỏe của anh đã bắt đầu suy kém.
Tôi có thể quên và được quyền quên tất cả mọi kỷ niệm, ký ức... tất cả mọi vui buồn trong đời. Nhưng không bao giờ quên được lời khuyên rất quan trọng của anh.
- Phải nhiệt thành trong tất cả mọi trường hợp. Bất cứ làm gì cho mình hay cho người, bao giờ cũng đầy nhiệt thành. Làm việc với nhiệt thành không bao giờ nản, đối thoại với nhiệt thành không bao giờ chán, sống với nhiệt thành thì thời gian không bao giờ trôi qua một cách nặng nề.
Lúc ấy tôi đã hỏi lại anh:
- Nhưng nếu lỡ có sự việc gì mà mình không cảm thấy “nhiệt thành” được thì sao?
Anh trả lời không ngần ngại:
- Thì de ra, cũng một cách nhiệt thành chứ sao!
À ra thế.
Anh Minh, tôi không biết gì quan trọng về anh Nhất Linh, ngoài bài học “Nhiệt thành” anh đã trao truyền lại, và tôi đã cố gắng giữ gìn đừng đánh mất.
Tôi kèm theo phóng ảnh ba bức thư của anh Nhất Linh. Tất cả thư từ anh đều viết tay và hơi khó đọc. Trong một thư đề tên Hoa, đó là một trong những tên “vượt biên” trước khi thành ra Linh Bảo.
5-13-2002
 Tác giả Ngô Thế Vinh là một bác sĩ, tốt nghiệp trường Y Khoa Sài Gòn năm 1968. “Thế giới Y khoa” có thể nói là môi trường hoạt động chính của anh, từ khi bước vào trường thuốc cho đến ngày nay. Mặc dù Ngô Thế Vinh nổi tiếng về nhiều tác phẩm không dính gì tới thuốc men, về các hoạt động không trực tiếp về sức khỏe của con người, nhưng tôi có cảm tưởng tâm hồn anh không bao giờ rời xa những năm học tập ở Đại học Y Khoa Sài Gòn, với những vị thầy khả kính từ học vấn uyên thâm lẫn nhân cách, với biết bao bạn bè đồng tâm đồng chí với mình từ khi còn đi học cho đến quãng đời về sau cọ xát với nhiều gian lao khổ ải, kể cả bỏ mình nơi chiến trận hoặc vào trải tù cải tạo cộng sản sau khi miền Nam thất thủ.
Muốn hiểu nỗi niềm đó của Ngô Thế Vinh thì cần phải đọc bài anh viết về Giáo sư Phạm Biểu Tâm, một Giáo sư ở vị trí lãnh đạo lâu năm nền giáo dục Y khoa của miền Nam, đã trở thành kết tinh cao nhất của cả một thế giới vừa nội tâm vừa ngoại cảnh suốt đời nơi một người học trò.
Giáo sư Phạm Biểu Tâm thì ai cũng biết là người Huế, nhưng ít ai biết ông là người gốc miền Nam của Việt Nam. Đây là một phát giác thú vị, vì đi ngược với khuynh hướng di dân chung của dân tộc Việt Nam là từ Bắc vào Nam. Đi ngược lại thì phần nhiều là đi làm quan tại miền Trung hay miền Bắc, như trường hợp họ Nguyễn Tường từ Quảng Nam ra lập nghiệp tại Hải Dương, để con cháu ba đời sau đã tạo nên một sự nghiệp lớn lao là Tự Lực Văn Đoàn và báo Phong Hóa Ngày Nay; và trường hợp ông cố của Gs Phạm Biểu Tâm từ Gò Công ra Huế làm quan thời Gia Long và gia đình định cư luôn tại đó. Nhưng riêng Gs Phạm Biểu Tâm lại đi thêm một bước nữa là ra Hà Nội học Y Khoa từ năm 1932 và từ năm 1948 trúng tuyển kỳ thi Thạc Sĩ Y Khoa [Professeur Agrégé des Universités] tại Paris, tiếp tục giảng dạy tại Đại học Y Khoa Hà Nội kiêm Giám đốc bệnh viện Phủ Doãn, cho đến cuộc di cư 1954 mới về lại đất cũ gốc gác miền Nam của mình từ bốn đời trước. Những cuộc “di cư ngược” từ bản chất là những người có khả năng được triều đình bổ dụng làm việc hoặc ở kinh đô Huế, hoặc ra hẳn miền Bắc xa xôi. Đó là những tinh hoa đã lộ ra từ miền đất mới mẻ phía Nam, họ đi làm việc triều đình nhưng dần dà đã định cư tại nơi làm việc, và đã để lại những hoa trái thật quý giá cho cả Việt Nam trên mảnh đất cũ của tổ tiên bao đời trước mà họ có cơ hội quay lại.
Năm 1954, Giáo-Sư Phạm Biểu Tâm đã cùng gia đình di cư vào Nam, được đề cử làm Giám Đốc Bệnh Viện Bình Dân mới xây cất xong trên đường Phan Thanh Giản Sài Gòn, đồng thời cũng là Trưởng Khu Ngoại Khoa tại bệnh Viện này. (...) Đây cũng là một bệnh viện giảng huấn trực thuộc trường Đại Học Y Nha Dược duy nhất của Miền Nam Việt Nam thời bấy giờ.
Khi Đại Học Hỗn Hợp Pháp Việt được người Pháp trao trả lại cho Việt Nam [11.05.1955], Giáo-Sư Phạm Biểu Tâm được đề cử làm Khoa Trưởng, và là vị Khoa Trưởng đầu tiên của Trường Đại Học Y Dược Sài Gòn [Faculté Mixte de Médecine et Pharmacie].
Năm 1962, Hiệp Hội Y Khoa Hoa Kỳ / American Medical Association [AMA] đã viện trợ một ngân khoản lớn cho Việt Nam để xây cất một Trung Tâm Giáo Dục Y Khoa với tiêu chuẩn hiện đại tại đường Hồng Bàng, Chợ Lớn, gồm một Trường Y Khoa [giai đoạn I] và một Bệnh Viện thực tập [giai đoạn II]. Lễ đặt viên đá đầu tiên do Tổng Thống Ngô Đình Diệm chủ tọa.
Sau biến cố 1963, Gs Phạm Biểu Tâm tiếp tục ở lại với Trường Y Khoa cho đến tháng 3 năm 1967, khi tướng Nguyễn Cao Kỳ, lúc đó là Chủ tịch Uỷ ban Hành pháp Trung ương đã đơn phương ký sắc lệnh giải nhiệm chức vụ Khoa Trưởng của Gs Phạm Biểu Tâm để thay thế bằng một Uỷ ban 5 người, đây cũng là lần đầu tiên ở miền Nam chính trị can thiệp vào nền tự trị đại học.
Với một ông Thầy gắn bó với chức vụ cao nhất của trường Y Khoa trong một thời gian lâu như thế, sinh viên rồi Bác sĩ Ngô Thế Vinh khi nhắc tới vị giáo sư đáng kính này là như sống lại cả một quãng đời từ khi bước vào trường Y cho tới ngày hôm nay. Ảnh hưởng của một người Thầy đúng nghĩa trong đời là như thế. Như một người cha tinh thần suốt đời của mình.
Sau 1975 thầy ở lại Sài Gòn tiếp tục giảng dạy Y khoa, trò đi vào tù cải tạo, may mắn là thầy trò cuối cùng lại được gặp nhau trên đất Mỹ.
Trong cảnh tha hương, cảm động và mừng tủi biết bao nhiêu khi được gặp lại Thầy, trên một lục địa mới ở một nơi xa quê nhà hơn nửa vòng trái đất. Được cầm bàn tay ấm áp và mềm mại của thầy Tâm trong bàn tay mình, rồi như từ trong tiềm thức của một hướng đạo sinh ngày nào, tôi siết nhẹ bàn tay trái của Thầy và chỉ có thể nói với Thầy một câu thật bâng khuâng “…đôi bàn tay này Thầy đã cứu sống biết nhiêu người.” “Có gì đâu Vinh.” Thầy xúc động và nghẹn ngào...
Như một câu chuyện có hậu. Nhưng tình tiết để dẫn đến cái “hậu” đó thì phong phú lắm, cần phải đọc hết bài này mới có thể thấy hết được. Tôi gọi đó là “Thế giới Y Khoa” của Ngô Thế Vinh.

*

Hoàng Ngọc Biên là một loại chân dung đặc biệt đáng được giới thiệu, vì nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu lẫn dịch thuật văn học, họa sĩ lẫn nhạc sĩ này vốn riêng được giới văn nghệ biết đến và quý mến, nhưng các đặc sắc của anh lại ít được quần chúng biết và chú ý.
Nhưng bài viết của Ngô Thế Vinh về Hoàng Ngọc Biên là một tài liệu có thể nói rất đầy đủ và phong phú về một con người đã đem lại cho nền văn học Việt Nam, ít nhất trong khung cảnh miền Nam trước 1975, nhiều mới lạ.
Trong khung cảnh cuộc chiến tranh Việt Nam ngày một leo thang với sự xâm nhập ngày càng lớn những binh đoàn từ miền Bắc, rồi đến cuộc đổ bộ của quân đội Mỹ, sự tuyên truyền rất hữu hiệu của phe cộng sản trên thế giới về hành động “xâm lược” của Mỹ tạo nên phong trào phản chiến rất mạnh trên đất Mỹ và khắp các nước Tây phương, một số trí thức Việt Nam không thể không chịu ảnh hưởng của cuộc diện ấy. Chính Võ Phiến nhớ lại hình ảnh của Hoàng Ngọc Biên thời ấy:
"Anh Biên thì khuynh tả, khoái Che Guevarachính anh thì râu ria tóc tai dài phủ tới ót”. Và Hoàng Ngọc Biên đã ở trong nhóm sáng lập tờ báo Trình Bầy, thở một hơi thở chung của khuynh hướng tả phái tại nhiều nơi trên thế giới. Cái ảo tưởng muốn người Việt Nam tự mình tìm hướng đi riêng trong cuộc đụng độ giữa hai thế lực lớn trên thế giới là tự do và cộng sản chính cũng là một loại lý tưởng của thời ấy, và lý tưởng nào thì cũng bắt nguồn từ thiện ý và từ hoàn cảnh đang có. Đó là lý do tờ Trình Bầy trong đời sống ngắn ngủi hai năm của nó, đã thu hút khá nhiều cây bút đủ mọi khuynh hướng của miền Nam. Và đó cũng là sự vỡ mộng của những người khuynh tả của miền Nam sau khi phe cộng sản thắng trận: tả hay hữu gì của thế giới tự do đối với cộng sản cũng đều là phản động tuốt, cũng có thể là những màn trá hình của CIA cả. Ngay cả trong nhiều trường hợp người cộng sản rất hiểu bản chất lý tưởng của những người thiên tả này họ cũng không dung nạp vì họ biết đó là những con người tự do, rồi ra sẽ làm rối hàng ngũ rất chỉnh đốn của họ. Người cộng sản làm cách mạng đâu có phải để đi cưu mang những con người lãng mạn? Họ đã triệt để lợi dụng thành phần này cho cuộc đấu tranh của họ, nhưng khi “bao nhiêu lợi quyền đã qua tay mình” thì tại sao họ lại đi ôm rơm cho nặng bụng? Tốt hơn hơn hết là quẳng đi những cái vỏ sau khi đã vắt kiệt hết nước.
Ngô Thế Vinh đã viết rất chính xác :
“Tưởng cũng nên nhắc tới ở đây sự giác ngộ của cả những khuôn mặt trí thức lớn thiên tả Pháp như Jean Paul Sartre đối với cộng sản Việt Nam sau 1975, khi có xảy ra thảm trạng "boat people" trên Biển Đông; chính J.P. Sartre đã trở thành một "activist" vận động hiệu quả cho "Một con tàu cho Việt Nam/ Un bateau pour le Vietnam" đi cứu vớt các thuyền nhân. Kinh nghiệm với cộng sản Việt Nam cho đến nay vẫn là một bài học/ a lesson to learn cho thế giới.”
Vậy chính sự vỡ mộng với cộng sản cũng đóng góp một vốn sống, một kinh nghiệm quý cho đời.
Nhưng hãy quên đi những nét thời sự tả hữu của thời mịt mù khói lửa ấy để chỉ nhìn vào các hoạt động văn học và nghệ thuật của HoàngNgọc Biên, thì sẽ thấy đây mới là những công việc “vượt thời gian và không gian” của anh : nghiên cứu về tiểu thuyết mới, tự mình thể nghiệm sáng tác và dịch thuật các tác phẩm theo khuynh hướng mới, làm thơ, vẽ tranh, làm nhạc, trình bày sách báo... với tất cả tài hoa và sự say mê đi tìm cái mới của mình, như nhận xét của Ngô Thế Vinh:
Chính Hoàng Ngọc Biên, cả ở những năm về sau này, qua những sáng tác mới anh vẫn cứ bền bỉ và kiên trì đi trên con đường tiểu thuyết mới mà anh đã chọn. Truyện của Biên kén độc giả, Hoàng Ngọc Biên không phải là tác giả của đám đông nên tên tuổi của anh cũng ít được biết tới.
Điều đáng quý trọng của Hoàng Ngọc Biên chính là tinh thần không bao giờ thỏa mãn với cái đang có.
Với Hoàng Ngọc Biên, một tác phẩm được công bố không bao giờ nên được nhìn như một sự hoàn chỉnh, suốt đời Biên luôn luôn là một cuộc hành trình đi tìm cái mới.
Chính tinh thần đó mới là tiền đề của tất cả sự sáng tạo và tiến tới cho cuộc sống của một xã hội.

*

Trong cuốn sách này Ngô Thế Vinh xây dựng chân dung của từng nhân vật với hai tư thế: một, với sự khách quan của một người nghiên cứu; và hai, với lợi thế to lớn của chủ quan, vì nhân vật được nói đến luôn luôn là một người bạn của mình.
Hai yếu tố đó hòa quyện lẫn nhau tạo nên một lợi thế đặc biệt cho người viết, vì thật ra khách quan và chủ quan chỉ là hai cách nhìn của một chủ thể, người cầm bút. Anh ta phải nhờ đến tài liệu để tạo nên bức chân dung trung thực: quê quán ở đâu, sinh năm nào, học lực thế nào, khuynh hướng ra sao... Rồi khi đụng đến tác phẩm của người ấy thì sự khách quan bắt đầu lung lay: sự thưởng thức nào lại chẳng có phần chủ quan trong đó, thậm chí là phần lớn. Đây là một tiểu thuyết của bạn mình, mà mình thì quá rõ tính tình, khả năng, sở thích, cuộc sống của người ấy thì những dòng chữ viết ra kia dễ đi thẳng vào cảm nhận của mình rồi. Hoặc nét tài hoa của một bức tranh mà bạn mình chia sẻ với mình từng cảm xúc khi sáng tác thì dĩ nhiên mình có thể hãnh diện nói mình “hiểu” nó, “cảm” nó hơn là người bàng quan, cái đó là dĩ nhiên.
Ở Ngô Thế Vinh chúng ta thấy được sức mạnh nội công ngoại kích ấy. Đó là một người bạn rất chân tình và cũng là người có khả năng tìm hiểu nghiên cứu sâu rộng và khách quan. Với tình bạn, anh có thể tiếp cận và tìm hiểu những người bạn của mình dễ dàng hơn là các tác giả xa lạ. Với tình bạn anh có thể biết tính tình cùng những khía cạnh tình cảm ẩn kín, những nỗi niềm riêng tư của bạn mình, những cái có thể soi sáng tác phẩm hay giải thích một khuynh hướng của người mình nghiên cứu. Trong khi đó thì con người nghiên cứu khách quan của Ngô Thế Vinh vẫn tiếp tục công việc với những nguyên tắc nghiêm nhặt mà anh đã tự đặt ra cho mình từ lâu. Tìm hiểu một con người anh luôn luôn đặt con người ấy vào môi trường lịch sử mà người ấy đã sống, công việc mà người ấy đã làm, quan hệ xã hội đã và đang có.
Một con người nhiều tính chất “huyền thoại” như Như Phong Lê Văn Tiến, dưới ngòi bút của Ngô Thế Vinh đã hiện ra như một con người thực hơn, cụ thể hơn nhưng cùng lúc chất huyền thoại có thể dày đặc hơn. Ngô Thế Vinh đã trình bày một cách rõ ràng tiểu sử của Như Phong như là một con người cụ thể, khi Như Phong làm báo Tự Do thì “lý lịch” của tờ báo này cũng được trình bày chi li từng giai đoạn; cho đến vai trò “mưu sĩ” của Như Phong giữa thập niên 1960 với khả năng đứng trong hậu trường sắp xếp các vai trò sân khấu chính trị như sắp xếp các quân cờ trên một bàn cờ; rồi đến 1975 trước khi miền Nam mất vào tay cộng sản thì Như Phong với kiến thức sâu rộng về cộng sản luôn luôn thúc dục bạn bè di tản ra nước ngoài nhưng riêng mình thì chọn ở lại để nếm thử thách với nhà tù cộng sản hàng chục năm... Ngô Thế Vinh đã sưu tầm hầu như không sót một khía cạnh nào của cuộc đời Như Phong như những dấu tích cụ thể, nhưng đồng thời cũng phủ dày thêm mảng sương mù huyền thoại quanh con người mang một đời sống tinh thần siêu việt hiếm có này.

*

Trong phần giới thiệu Võ Phiến, một nhà văn quan trọng của miền Nam trước 1975, tôi chú ý nhất đến đoạn Ngô Thế Vinh thẩm định về bộ Văn Học Miền Nam của Võ Phiến.
Cho đến khi bộ Văn Học Miền Nam ra đời, chúng ta mới biết được rằng sự nghiệp văn học của miền Nam từ 1954 đến 1975 thật là quan trọng và đồ sộ, nhưng vẫn thiếu một cây bút phê bình đích thực, bao quát hết giá trị văn học trong hai thập niên của một quốc gia. Có lẽ vì nền văn học nghệ thuật ấy còn đang trẻ quá, sung sức quá, khiến cả xã hội chưa thấy có nhu cầu tổng kết cho nên chưa nảy ra một tài năng để đánh giá một cách bao quát. Giống như một người khi tương đối còn trẻ đầy sinh lực thì người ấy muốn dùng sinh lực của mình để sáng tạo chứ chưa thấy có nhu cầu... viết hồi ký, tức là nhìn lại để thẩm định chính mình. Nhưng rồi kẻ ấy bị bức tử trong tuổi thanh xuân đang phơi phới, không những thế bao nhiêu sự nghiệp tinh thần ngồn ngộn phong phú bị kẻ chiếm đoạt làm mồi cho lửa hết, đốt sạch, tận diệt trong một cơn hả hê thú vật.
Và sau đó thì sao nữa? Giới cầm bút, cầm cọ, ôm đàn..., nói chung người của văn học nghệ thuật và văn hóa, ai chạy thoát thì tán loạn khắp thế giới, kẻ còn lại thì bị gom hết vào tù. Rồi sao nữa? Hơi hoàn hồn lại thì có người nghĩ tới việc cần làm một cái gì đó để lưu giữ được chừng nào hay chừng đó cả một sự nghiệp văn hóa đồ sộ của hai mươi năm của một quốc gia non trẻ. Hai tay trắng đứng giữa một xứ sở xa lạ, bắt đầu từ đâu? với vốn liếng nào?
Nhưng bao giờ cũng thế, tất cả phải bắt đầu từ một tư tưởng, một ý nghĩ. Không có cái thao thức đầu tiên ấy thì rốt cuộc cũng chẳng gì xảy ra. Và cái sự nghiệp lớn lao kia của miền Nam sẽ dần dần tan biến, bị quên lãng trong cuộc sống luôn luôn lao về phía trước. Cái tia chớp trong đầu của một cá nhân đó, rồi ra sẽ là một cái gì đó rất vĩ đại, thành một công ơn lớn đối với di sản tinh thần của một dân tộc. “Bên thắng cuộc” ra tay đốt, cấm đoán, lên án, cầm tù..., mọi việc công khai rõ rệt dưới ánh mặt trời giữa một miền Nam sau ngày 30 tháng Tư 1975. Cả dân tộc biết. Cả thế giới biết. Nhưng từ một ánh chớp trong đầu một cá nhân đơn độc lại có khả năng gầy dựng lại, từ một viên gạch, rồi hai viên gạch, một hàng gạch, dần dần thành hình hàng lối. Ý tưởng được chia sẻ, các thiện chí hưởng ứng, góp tay vào tìm kiếm sách vở tài liệu. Dần dần thành một kiến trúc: bộ Văn Học Miền Nam đã thành hình sau 15 năm miệt mài.
Dù có một số lời chê bai từ nhiều động lực khác nhau, cái công trình đó vẫn là nền tảng cực kỳ cần thiết và quý giá làm căn bản để tìm lại một thiên đàng đã mất là nền văn học của nước Việt Nam Cộng Hòa trong hai mươi năm hiện diện cuả nó. Công trình đó chỉ do MỘT người chấp bút: Võ Phiến.
Trong bài viết về Võ Phiến trong sách này, Ngô Thế Vinh đã nhận xét một cách khách quan:
“Người ta đã nặng lời trách ông về những phần thiếu sót trong bộ sách ấy: như khi ông đã gạt một số tên tuổi văn học của thời kỳ 1954-75 ra khỏi bộ Văn Học Miền Nam Tổng Quan, rồi cả cách ông phê bình các nhà văn, nhà thơ được ông chọn đưa vào sách cũng bị ông sử dụng cái sở trường văn phong tuỳ bút / nay thành sở đoản để châm biếm mỉa mai cá nhân với nhiều định kiến thiên lệch.
Nhà văn Mặc Đỗ nhóm Quan Điểm thì thật sự bất bình, Mai Thảo nhóm Sáng Tạo trong lần trò chuyện cuối cùng với Thuỵ Khuê 07/ 1997 cũng không kềm được cảm xúc nói tới bọn vua Lê chúa Trịnh’, và nói thẳng: ‘Võ Phiến cũng có chỗ được chỗ không được. Đại khái như phê bình văn học, đối với tôi thì không được. Văn Học Miền Nam tổng quan đó thì không được. Thơ dở. Tạp văn hay’.
“Biết thiếu sót, biết trước có những hạn chế nhưng chính Võ Phiến, trái với bản chất thâm trầm và thận trọng cố hữu, Võ Phiến vẫn liều lĩnh - như một "risk taker", ẩn nhẫn làm một công việc tốn rất nhiều công sức và cả nhiều rủi ro như thế. Tưởng cũng nên ghi nhận ở đây, trong suốt hơn 15 năm từng bước hoàn thành công trình Văn Học Miền Nam với hơn ba ngàn trang sách ấy, Võ Phiến vẫn đang là một công chức sở Hưu bổng làm việc full time cho quận hạt Los Angeles, như vậy là ông đã phải làm việc ngoài giờ và những ngày cuối tuần. Võ Phiến về hưu tháng 7 năm 1994, ông tiếp tục viết thêm 5 năm nữa để hoàn tất toàn bộ Văn Học Miền Nam 1999. Nếu không có hùng tâm, với công sức của một cá nhân khó có thể làm được như vậy.”
Thiết tưởng Ngô Thế Vinh đã có cái nhìn công bình với công trình lớn lao này của Võ Phiến vậy.

*

Kết thúc bài điểm sách này ở đây, theo tôi, là quá sớm; nhưng nếu tiếp tục, lại quá trễ.
Hầu như chương nào của cuốn sách (mỗi chương đề cập đến một nhân vật) cũng đầy lôi cuốn: thông tin về tiểu sử, về cuộc sống của nhân vật ấy rất đầy đủ và linh động; thông tin về hoạt động văn học nghệ thuật hay văn hóa của người đó lại càng phong phú với rất nhiều tài liệu liên hệ được chọn lọc kỹ càng; rồi những kỷ niệm của tác giả với nhân vật trong quan hệ đôi khi rất chằng chịt giữa bạn bè lại càng tô đậm những nét quyến rũ của những loại tài liệu riêng tư chỉ mình tác giả có...
Nhưng trong công việc giới thiệu một cuốn sách, việc trích dẫn từng chương chỉ là đưa ra những thí dụ để minh chứng cho các nhận xét chung của mình. Dù có tiếc, có muốn tiếp tục giới thiệu các chương rất hay còn lại cũng không nên, vì độc giả mới là kẻ ưu tiên được quyền khám phá hết toàn diện tác phẩm, xin dành cho độc giả việc khám phá những mảnh đất chưa một người nào đặt chân tới. Vâng, chúng tôi xin giữ lại những vùng còn rộng mênh mông đầy quyến rũ ấy cho quý vị.
Chúng ta đang có trong tay một cuốn sách nghiên cứu nghiêm túc, nhưng đồng thời cũng là một cuốn truyện kể đầy nghệ thuật. Loại viết này tôi cho là rất mới, nó giới thiệu cho chúng ta những khuôn mặt, hay nói như tác giả, những chân dung --với hình ảnh rõ rệt và chi tiết toàn diện về nhân vật ấy. Dù không hẳn là một tác phẩm phê bình văn học nghệ thuật, nhưng tác phẩm này giúp chúng ta nhìn rõ “chân dung” của một số nhân vật, dĩ nhiên chủ yếu là chân dung tinh thần.
Chân dung ấy chỉ có được bởi một người rất thiết tha với văn học, nghệ thuật và văn hóa của xứ sở, dùng kiến thức giàu có và kinh nghiệm sống của chính mình để tạo nên. Trước đây năm sáu mươi năm Nguyễn Mạnh Côn đã viết cuốn “Đem tâm tình viết lịch sử” thì với cuốn sách này, tôi xin gọi tác giả Ngô Thế Vinh là người đem tâm tình viết nên một mảng văn học nghệ thuật và văn hóa của miền Nam trước năm 1975. Chỉ qua một số nhân vật, nhưng như đã nói ở một đoạn trên, những cái bóng của họ đã phủ một khoảng rộng trong không gian miền Nam thời ấy, góp phần khá lớn vào việc tạo dựng lại đặc tính của một nền sáng tạo tự do, mà cho đến bây giờ người dân Việt Nam khi nhớ lại hãy còn ao ước.
Xin trích lại một câu thâm trầm trong cuốn sách này để thay lời kết:
“Thời gian đã mất, nhưng rồi qua ký ức trí tuệ của Proust thời gian tìm thấy lại, và đã trở thành thời gian bất tử.”

28.8.2017

Friday, December 31, 2021

Vui Ca Xang / Phạm Xuân Đài

 Tác giả xin cám ơn Giáo sư Trần Huy Bích đã giúp nhiều tài liệu cần thiết cho bài viết này.

 



Hình minh họa Chinh Phụ Ngâm do tác giả, 

nhà văn Trùng Dương cung cấp.

Gần đây tôi có dịp xem video của Thúy Nga Paris trình diễn ba bài Hòn Vọng Phu 1, 2 và 3 của Lê Thương. Sự dàn dựng cảnh trí, các màn phụ diễn đều công phu, tạo nên một không khí chinh chiến ngày xưa, và nhất là giọng hát của các ca sĩ đều hay, diễn tả thành công chủ đề mà mình trình diễn.

 Tiếc thay trong bài Hòn Vọng Phu 1, lời hát có sai một chữ, nhưng chữ đó lại rất quan trọng, làm biến đổi cả không khí của bài hát mà nhạc sĩ Lê Thương đã cố công dựng nên khi sáng tác Hòn Vọng Phu. Đó là câu nguyên văn của tác giả :

 Vui ca xang rồi đi tiến binh ngoài ngàn

 đã được ca sĩ Thế Sơn hát là :

 Vui ca xong rồi đi tiến binh ngoài ngàn

 Thật là một sai lầm đáng tiếc.

 Chúng ta đều biết Lê Thương thuộc vào hàng nhạc sĩ kỳ cựu của nền tân nhạc Việt Nam, đã bắt đầu sáng tác từ những năm cuối của thập niên 1930 những ca khúc như Bản Đàn Xuân, Thu Trên Đảo Kinh Châu…, và từ đó tiếp tục sáng tác và để lại cho đời một di sản âm nhạc to lớn sau khi ông từ trần năm 1996 tại Sài Gòn, thọ 82 tuổi.

 Riêng liên khúc Hòn Vọng Phu 1, 2 và 3 sáng tác trong thập niên 1940 là một tác phẩm rất quan trọng của ông, chất chứa mênh mang âm hưởng và tình cảm dân tộc, được xem như một trường ca đầu tiên của Việt Nam. Có thể nói không ngoa rằng nhạc điệu lẫn lời ca của liên khúc Hòn Vọng Phu đã thấm nhuần trong tình cảm người Việt Nam một cách rộng rãi và sâu xa nhất, có lẽ trong lịch sử của nền tân nhạc chưa dài lắm của đất nước chúng ta chưa có tác phẩm nào đạt được vị trí ấy.

 Được xem là “trường ca” trong nền âm nhạc Việt Nam cho tới ngày nay không nhiều. Xưa nhất là Hòn Vọng Phu gồm ba bài trong dạng chuyện kể, mà bài Hòn Vọng Phu 1 đã được sáng tác năm 1943, các bài 2 và 3 cũng được hoàn tất sau đó mấy năm trong thập niên 1940.

 Tiếp theo là bài Trường Ca Sông Lô của Văn Cao sáng tác năm 1947, ca ngợi một chiến công trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

 Khoảng giữa thập niên 1950 xuất hiện một trường ca cũng trong dạng ba ca khúc nối tiếp nhau, đó là Hội Trùng Dương của Phạm Đình Chương, viết về ba con sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long như là hình tượng thống nhất của nước Việt Nam.

 Rồi mãi đến đầu thập niên 1960 trường ca Con Đường Cái Quan, và giữa thập niên 1960, trường ca Mẹ Việt Nam của Phạm Duy mới ra đời.

 Đó là những trường ca đúng nghĩa, có giá trị nghệ thuật cao, đứng vững với thời gian cho đến nay. Nhưng nếu có ai đặt câu hỏi : trong các bài trường ca ấy, bài nào được người dân hát nhiều nhất, nhớ nhiều nhất, phổ biến trong dân chúng rộng rãi nhất, thì câu trả lời sẽ là : Hòn Vọng Phu, trong đó Hòn Vọng Phu 1 thấm nhuần trong dân chúng sâu đậm nhất.

 Vì sao nhạc sĩ Lê Thương đặt tên tác phẩm của mình là Hòn Vọng Phu ? Vì ở tỉnh Lạng Sơn giáp giới với nước Tàu có một quả núi trên đó sừng sững một hòn đá lớn có hình thù trông giống như một người đàn bà đang ôm đứa con, đứng nhìn ra phía xa như đang mong đợi một ai đó. Dân gian Việt Nam đặt tên bức tượng do thiên nhiên tạo ra ấy là Hòn Vọng Phu, tức là hòn đá có hình người đàn bà ôm con trông chờ chồng về. Có lẽ cảm xúc vì lối đặt tên đó của dân gian hàm ý lịch sử đất nước chúng ta có nhiều chinh chiến --với người Trung Hoa phía Bắc suốt một chiều dài của lịch sử lúc nào cũng muốn chiếm nước ta để sáp nhập vào nước Tàu. Cái tâm thức “chờ chồng về” từ chiến trận của người phụ nữ Việt Nam có lẽ vẫn tiềm tàng trong tâm hồn dân tộc như một đặc tính do hoàn cảnh lịch sử mang lại, khiến cho khi thấy một hòn đá trên núi giống hình người mẹ ôm con thì dân chúng đặt ngay tên là Hòn Vọng Phu –Hòn Chờ Chồng. Đó là một cách nhìn thiên nhiên mà cảm ứng với tâm trạng dài dằng dặc của dân một xứ nhiều giặc giã, thật là ý nghĩa và cảm động.

 Nhạc sĩ Lê Thương, một nhạc sĩ thuộc thế hệ theo tân nhạc đầu tiên của Việt Nam, chỉ nhìn hòn đá đó mà hòa nhập với một cảm thức rộng lớn của dân tộc qua suốt một lịch sử lâu dài : lịch sử của các cuộc chiến không ngừng để giữ nước, mà hòn đá chờ chồng là một tiêu biểu đầy cảm động trên một mặt khác của chiến tranh. Ông đã sáng tác ba bài Hòn Vọng Phu để nói về hào khí của cuộc xuất quân, về nỗi nhớ mong của người vợ có chồng đi chinh chiến, cho đến ngày về của người chinh phu. Điểm đặc sắc của ba hòn vọng phu là đều mang đầy âm hưởng cổ kính của dân tộc, về nhạc cũng như về lời. Trải qua nhiều năm tháng, trải qua nhiều thế hệ, trường ca Hòn Vọng Phu vẫn được trình diễn và được thưởng ngoạn như một tác phẩm hàng đầu của dân tộc.

 Đến đây người viết xin phép được mở một dấu ngoặc để lạm bàn về một cách diễn đạt khác về người chờ chồng Tô Thị. Ngoài Lê Thương, hình tượng vọng phu còn được nhạc sĩ Phạm Duy nhắc đến trong trường ca Con Đường Cái Quan của ông. Không khác Lê Thương, Phạm Duy cũng cảm nhận cái truyền thuyết vọng phu bàng bạc trong đời sống tinh thần và tình cảm của dân tộc Việt Nam, và nhìn nó gần như là một tín ngưỡng trong tâm thức của dân gian : thờ phượng sự sắt son chờ đợi và sự hóa đá của người đàn bà chờ chồng. Trong hành trình từ Bắc vào Nam, ngay đoạn đầu người lữ khách Phạm Duy đã hát

 Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa

Có nàng Tô Thị đứng chờ đợi ai

Và khuyên người chẳng tái hồi

Cho ngàn năm được sống đời… vọng phu !

 Phạm Duy đã biến sự chờ đợi gần như một tín ngưỡng, người đứng chờ mong cho người mình thương yêu đừng về, để cho nàng… hóa đá thì nàng mới có thể đứng mãi ngàn năm mà chờ. Đúng là Phạm Duy đã nâng sự chờ đợi thành một thách đố của lòng kiên gan, như một phép tu để cô kết thể xác và tinh thần biến thành một trạng thái cứng rắn vĩnh viễn : hóa đá. Đá như một kết quả tu chứng của đạo… chờ chồng! (xin đóng ngoặc).

 Quay lại với Hòn Vọng Phu của Lê Thương, chúng ta có bổn phận phải gìn giữ sự nguyên vẹn của tác phẩm này như một viên ngọc quý, đừng để thời gian và sự thiếu ý thức gây nên những vết trầy xước đáng tiếc.

 Bài viết này hôm nay xin đề cập đến một chữ trong bài Hòn Vọng Phu 1 có khi bị hát sai, đó là chữ ca xang trong câu Vui ca xang rồi đi tiến binh ngoài ngàn. Trước khi đi vào việc phân tích và tìm hiểu chữ, nghĩa, chúng tôi mời độc giả xem kỹ lời bài Hòn Vọng Phu 1 trong bản nhạc xuất bản năm 1955, do chính tác giả Lê Thương giữ bản quyền.

 


Câu “Vui ca xang rồi đi tiến binh ngoài ngàn” đã được in trong bản này. Các bản Hòn Vọng Phu 1 khác được tái bản ở miền Nam trước 1975 cũng đều giống như bản này, về nhạc cũng như về lời. Vậy chúng ta có thể xem đây là bản gốc, in lần thứ nhất, do chính tác giả chủ trương xuất bản và giữ bản quyền.

 Khảo sát một số mục trình diễn Hòn Vọng Phu 1 trong thời gian trước 1975 cho đến nay, chúng tôi ghi nhận hầu hết hát đúng hai chữ “ca xang” : Tiếng hát Thái Thanh trước 1975; ban hợp xướng Ngàn Khơi tại California; đĩa nhạc của Asia với Hoàng Oanh, Thanh Lan, Duy Quang; Album Tuyển chọn Duy Khánh; ca sĩ Đức Tuấn (trong nước); một ca đoàn của người Pháp trình diễn tại Pháp v.v… Một vài nơi hát “ca xong” như Thúy Nga Paris, hoặc “ca vang” như tôi có bắt gặp đâu đó, nhưng tương đối hiếm hoi.

 Chúng tôi nghĩ sở dĩ có trường hợp hát sai đáng tiếc như thế, là do người hát không hiểu nghĩa chữ “ca xang” là gì, cho là do bản nhạc in sai, và mình có nhiệm vụ tìm chữ đúng để hát. Từ “ca xang” đổi sang “ca xong”, được lắm, dễ hiểu hơn nhiều, nhất là nó có thể gợi ý có một “party” ca nhạc với nhiều ca nhi để tiễn vị tướng lên đường, và khi phần ca nhạc vừa chấm dứt (ca xong) là cuộc xuất quân bắt đầu... Hoặc đổi thành “ca vang”, một cách nói rất quen thuộc để tả tiếng hát to một cách mạnh mẽ. Chứ xang là cái gì nghe lạ hoắc, hát lên nghe cũng chướng tai, ngượng miệng !

 Nhưng thiết nghĩ thái độ chung của người trình diễn là phải tôn trọng nguyên tác của tác giả, nếu có gì không hiểu thì nên tìm hiểu chứ không nên tự đặt lời khác để hát theo ý mình. Đây là một tệ nạn cần phải tránh, nhất là đối với những tác phẩm đã thành cổ điển.

 Riêng đối với những ai hiểu chữ “ca xang” thì thấy câu hát ấy thật hay, vì vang lên một âm hưởng rất cổ kính, giữa khung cảnh xuất quân của một võ tướng ngày xưa. Vậy “ca xang” là gì ?

 Chúng ta cùng đi tìm chữ ấy trong sách vở cũ.

 Từ "xang" có trong tiếng Việt từ rất lâu, và được ghi trong tất cả những tự điển tiếng Việt có danh tiếng từ thế kỷ 17 tới nay:

 1) Tự điển Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) của Alexandre de Rhodes (1651):

 Xang: agitate corpus ambulando (vừa đi vừa lắc thân thể)

 2) Tự điển Việt-Latin (Dictionarium Anamitico-Latinum) của GM. Taberd (1838):

 Xang: manum altè extollere (nâng tay lên cao)

 3) Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của (1895-96):

 Xang: giang tay, đưa tay lên, múa men.

 4) Tự điển Việt-Pháp (Dictionnaire annamite-français) của Jean Bonet (1900):

 Xang: lever les bras, gesticuler, jouer, danser (nâng tay lên cao, làm cử chỉ, chơi đùa, nhảy múa)

 5) Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (1931):

 Xang: giang tay, giơ tay lên.

 6) Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ (1970-71):

 Xang: giang tay, múa men.

 7) Tự Điển Tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ Học (Hoàng Phê chủ biên, 2003):

 Xang: đưa qua đưa lại (“chân xang qua xang lại”).

 Tuy có một số tiểu tiết khác biệt nhỏ qua các thời, từ “xang” cho ta một ý niệm động: nâng tay lên cao, giang tay, múa men.

 Một điều ai cũng nhận thấy, là khi sáng tác Hòn Vọng Phu 1, Lê Thương đã chịu ảnh hưởng rất nhiều của tác phẩm Chinh Phụ Ngâm, nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn, do Đoàn Thị Điểm dịch sang thơ Việt. Riêng câu hát “Vui ca xang rồi đi tiến binh ngoài ngàn” cũng có thể tìm thấy dấu vết từ Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm qua Chinh Phụ Ngâm.

 Nguyên câu chữ Hán trong Chinh Phụ Ngâm :

 Trịch ly bôi hề, vũ Long tuyền

(Quăng chén rượu tiễn, múa kiếm Long tuyền)

 Câu ấy được dịch là:

 Múa gươm rượu tiễn chưa tàn

 Cuối buổi tiệc tiễn hành, người tráng sĩ ra đi ném chén rượu, cầm gươm lên múa.

 Những hình ảnh “quăng chén rượu tiễn, múa gươm” đã thành những hình ảnh ước lệ để diễn tả sự hăng hái của kẻ ra đi.

 Vào thế kỷ 19, Tôn Thọ Tường, một viên quan văn, nhưng khi được chọn sang Pháp dù chỉ để làm nhiệm vụ thông dịch, cũng hăng hái viết:

 Múa gươm, quăng chén, cất mình đi

Bịn rịn đâu màng thói nữ nhi.

 Sau câu:

 Qua Thiên San kìa ai tiễn rượu vừa tàn

 Lê Thương cho biết người chinh phu đã “vui ca xang” trước khi “tiến binh ngoài ngàn.” Ông muốn nói chàng đã ca hát và múa (có thể là múa gươm, có thể chỉ là múa chân tay không). Đó là những hình ảnh đã thành ước lệ để chỉ sự hăng hái của kẻ ra đi.

 Nếu đổi “vui ca xang” thành “vui ca vang” hay “vui ca xong,” chúng ta sẽ vô tình làm mất đi cái hình ảnh hào hùng đã thành ước lệ ấy.

 Đến đây thiết tưởng chúng tôi cũng đã tạm làm xong công việc bênh vực cho một chữ bị hát sai. Một góp ý rất nhỏ, nhưng mong rằng cũng góp phần để giữ gìn sự nguyên vẹn cho một tác phẩm giá trị của văn hóa Việt Nam.

 Little Saigon ngày 29 tháng 12 năm 2021

 Phạm Xuân Đài

 

 Ý KIẾN CỦA BẠN ĐỌC VỀ BÀI ‘VUI CA XANG’

 

 Món quà bất ngờ

Xin chúc các bạn cùng gia đình sức khỏe và an vui ...

Bài của PP Minh hay quá... Món quà bất ngờ,  rất quí. Xin cảm ơn bạn...

 Q T..

(Quyên và ĐQ Toàn Dec 31, 21)

 

 Share trên Facebook

Hay quá, bác Minh! Cháu mới share trên facebook của cháu! 

 Chúc mừng năm mới đến với hai bác và đại gia đình! 

 ysa (31 Dec 21)

 Hạo-Nhiên cũng mới share trên Facebook của ảnh. :) 

Ysa Le (31 Dec 21)

 

 Hay và đúng

 Rất hay và  rất đúng, Nga vẫn  nhớ  lời hát  là  "vui ca xang" nhưng không  nghe TS hát nên không biết  là  có  nhiều  người  đã hát  sai. Hôm  này đọc  bài  anh viết, có minh chứng và  trích dẫn từ các  tự điển khác nhau, giúp mình  hiểu  thêm nhiều ý nghĩa của  chữ "xang". Rất hay và  gợi hình. Cuộc tiệc tiễn đưa  này  là  để  hâm nóng  máu  anh hùng nên  phải có  múa may cho ấm phải  không  anh ? Cảm ơn anh.

Tôn Nữ  Thu Nga (Jan 1, 22)

  

Đọc rất thú vị

Minh thân mến, cám ơn Minh đã gởi bài Hòn vọng Phu, bài viết hay, đọc rất thú vị. Thú vị là vì Hòn Vọng Phu thì biết và nghe nói nhiều lâu rồi nhưng không sâu sắc đầy đủ như bài của Minh.

Hoàng Huề, Việt Nam (trích email ngày 1- 1- 2022)

 

Đúng và cần thiết

 Bài viết công phu, có khảo cứu cẩn thận và rất hay.

Tôi và Xuân Vinh luôn cùng một ý với nhau là bộ ba

HÒN VỌNG PHU là một MASTERPIECE, là một viên ngọc

quí không có tỳ vết của âm nhạc Việt Nam.

Việc làm bảo vệ văn học nghệ thuật của ông là đúng và cần thiết.

Tôn trọng và giữ gìn nguyên tác là bổn phận của mọi người.

 

Chúc ông bà năm mới được khỏe mạnh và bình yên.

Nguyễn Mạnh.

(Jan 1, 22)

 

Khai bút năm 2022

Thưa Bác,

Gia đình con kính chúc hai Bác năm mới bình an, nhiều sức khỏe.

Bài viết khai bút năm 2022 của Bác cho thấy bút lực và chất nghiên cứu vẫn rất dồi dào, thú vị.

Đúng là câu "vui ca xang" trong Hòn Vọng Phu con vẫn hát đúng từ lúc còn thiếu niên, nhưng chỉ không biết "ca xang" có nghĩa gì thôi! Việc tùy tiện đổi lời bài hát, nhất là những bài cổ điển sẽ làm mất đi giá trị không chỉ của tác phẩm mà còn của cả người thể hiện nữa.

 Phạm Phú Cường – Sài Gòn Jan 2, 22

 

Việt Nam không mở được DĐTK

Anh Minh ơi,

Ngày đầu năm, em vui quá chừng, được theo anh Minh và anh Song Thao trên "bảng vàng" của DĐTK.

Đọc bài "Vui Ca Xang", em được thấy, được nghe thêm những điều lý thú, quý giá. Em chuyển tiếp cho bạn bè. Nhưng bạn bè em ở Việt Nam không mở được link của DĐTK. Em có nhận bài này qua email, nhưng lại không có hình minh họa cũng như không có những chữ in nghiêng, in đậm. Em tiếc ghê, những bài giá trị mà không chia sẻ trọn vẹn cho mấy người bạn lòng được.

 Em nghe nói ở California năm nay khá lạnh. Bên Đức mấy hôm nay lại ấm.

Mong anh luôn vui khỏe.

Ngọc Thúy (Germany Jan 3, 22)

 

Một đề tài bất ngờ

Anh Minh quý mến,

Rất vui được tin anh. Trước hết tôi cũng xin chúc anh và gia đình sang Năm Mới được nhiều sức khỏe, vạn sự an lành.

Sau là cám ơn anh đã cho tôi đọc bài Vui Ca Xang, một đề tài bất ngờ gây nhiều thích thú. Một đề tài mà anh đã khai thác tận cùng, nghiên cứu tỉ mỉ và trình bày hấp dẫn.

Tôi học được của anh vài điều lý thú, chẳng hạn hòn đá Vọng phu ở tại Lạng Sơn, điều mà tôi không biết. Đọc anh bỗng nhiên trong đầu tôi vang lên những bản nhạc của Lê Thương mà khi nhỏ tôi thường hát nghêu ngao, tôi nghĩ rằng Lê Thương là người Nam vì qua nhạc của ông mình nghe được giọng Nam.

Đôi điều chia sẻ với anh. Mong thỉnh thoảng được tin anh.

Liễu

(Trương Thị Liễu, Paris Jan 4, 22)

Tự định nghĩa lấy

Vâng đúng là bài của Đông Kha không làm người đọc thỏa mãn lắm vì không trưng dẫn được chứng liệu nào thuyết phục. Việc tra cứu, tìm hiểu cũng chưa tới nơi tới chốn như bài của anh Minh. Ngay cách định nghĩa chữ "xang" của ông (hân hoan, cao, thượng) cũng là ông... tự định nghĩa lấy. 

Lê Hữu (Jan 8, 22)

Bạn bè ở Việt Nam 

Anh Minh ơi,

 Những người, cũng như em, trước đây nghe "vui ca xang" nhưng không hiểu rõ, giờ rất vui, hiểu được, tấm tắc hoài.

Em chuyển vài  "thư phản hồi" của bạn bè ở Việt Nam sau khi đọc "Vui Ca Xang".

 "Bài viết hay quá cho mình thêm kiến thức. Hồi xưa ba chị rất thích bài hát này mở băng nghe và hát theo chứ không có bài nhạc chính gốc chừ mới biết rất thú vị."

 "Hay lắm em. Mình chẳng phải chuyên gia phê bình âm nhạc, nhưng thật sự rất bực bội khó chịu khi nghe ca sĩ hát sai lời (tưởng là việc nhỏ nhưng nhiều khi làm sai ý hoặc giảm hẳn giá trị của một vài câu, từ rất "đắt" của tác giả. Chẳng hạn " Mắt xanh lả bóng dừa hoang dại" (Mộng dưới hoa) bị hát thành "...là bóng...), từ lả tuyệt vời như vậy! Hoặc "thấu chăng lòng khách bơ vơ" (Hướng về Hà Nôi) bị hát thành "thấy chăng..."   thiệt nghe mà tức cái bụng..."

 "Hy vọng các ca sĩ đọc được bài viết của tác giả Phạm Xuân Đài để có sự tìm hiểu kỹ về ca từ cũng như giai điệu của một nhạc phẩm mình sắp thể hiện. T nghĩ không những ca sĩ mà cả ban nhạc đều phải có trách nhiệm tìm hiểu chứ sao lại để ca sĩ hát sai từ làm giảm giá trị của bản nhạc như vậy ..."

  Ngọc Thúy (Germany) Jan 9, 22

 

Cảm ơn bác

Mới đây, tôi được một người bạn forward cho đọc một bài viết của bác về "Vui ca xang" trong trường ca Hòn Vọng Phu của Lê Thương. Bác viết rất hay. Đọc thú vị. Cảm ơn bác.

Nguyễn Tuyển (Jan 10, 22)

 

Vài suy nghĩ khi đọc “ VUI CA XANG”

của tác giả Phạm Xuân Đài.

 

 Để giải thích cho một chữ - mà ca sĩ Thế Sơn hát sai trong video của Thuý Nga Paris – ông Phạm Xuân Đài đã viết một bài khá công phu, với những dẫn chứng về tác giả, về sự ra đời của tác phẩm, cho đến vì sao nhạc sĩ Lê Thương chọn tên Hòn Vọng Phu, một cái tên mang đậm nét lịch sử đầy hào khí của dân tộc Việt Nam, đặt cho tác phẩm của mình.

 

Trước hết tác giả xác định rõ vị trí của Hòn Vọng Phu 1, 2, 3 của nhạc sĩ Lê Thương là một nhạc phẩm có giá trị nghệ thuật cao, đã tồn tại bền vững với thời gian, là một bản trường ca đầu tiên hào hùng mang đậm tình cảm dân tộc, được phổ biến rộng rãi trong dân gian. Có thể nói cho đến nay, chưa có tác phẩm nào thay thế được. (Tuy là có Sông Lô của nhạc sĩ Văn Cao; Có Hội Trùng Dương của nhạc sĩ Phạm Đình Chương đó ).

Kế đến, tác giả dẫn chứng 1 bản gốc của tác phẩm do chính nhạc sĩ cho xuất bản trước 1975.

Rồi tác giả trích dẫn khá nhiều từ điển đã giải thích nguyên nghĩa chữ “ XANG “ – một hình ảnh ước lệ thể hiện sự hăng hái lên đường tòng quân của người chinh phu.

 

Cái hay của bài là tác giả giải thích với những chứng cứ đầy thuyết phục, đã dần đưa độc giả từ từ hiểu rõ, hiểu sâu, hiểu đúng câu chữ trong bài Hòn Vọng Phu 1 là “ vui ca xang “ chứ không phải là “vui ca xong” hay “vui ca vang”.

 

Thưởng thức mà ta cảm nhận sự lịch sự quá đẹp của tác giả khi phê phán về cái sai, về sự thiếu sót… cũng hết sức cẩn trọng, nhẹ nhàng và chân tình. ( Không quá bút phê làm bẽ mặt ai đó…).

 

Có thể nói, Phạm Xuân Đài là ngòi bút có tâm và có tầm. Ông đã không quản ngại tốn kém thời gian, sưu tầm tài liệu để làm sáng tỏ, dù đó chỉ là một chữ: XANG ! 

Với tấm lòng yêu quê hương, mục đích của tác giả không ngoài là gìn giữ, bảo tồn sự nguyên vẹn cho một bản trường ca hết sức giá trị của nền văn hoá Việt Nam./.

 

Kare Kim 

( Jan, 12th 2022 )