On
Sep 8, 2022, at 1:36 PM, Minh Pham <phamdongban@gmail.com> wrote:
Kể ra biết được "xuất xứ" của những bản nhạc nổi tiếng xưa nay thì cũng thú vị thật, nhưng chẳng ai dám bảo đảm những lời kể trong bài “Xuất Xứ Những Bài Nhạc Việt ‘Vang Bóng Một Thời’” gồm những bài như
- Xuất xứ bài Biệt Ly của Dzoãn Mẫn
- Xuất xứ bài Giọt Mưa Thu của Đặng Thế Phong
V.v… cả thảy là 13 bài
có đúng sự thật không. Riêng tôi, tôi nghi lắm. Một tác phẩm nghệ thuật đâu bắt buộc phải là kết quả của một câu chuyện cụ thể trong đời người sáng tác.
Khoảng
năm 1967, 68 tôi và Trịnh Công Sơn sống chung trong mấy dãy nhà tiền chế trên
nền khám lớn Sài Gòn --hồi đó bộ Giáo Dục giao cho chương trình sinh hoạt thanh
niên học đường chúng tôi quản lý các dãy nhà đó để tổ chức các sinh hoạt.
Một
buổi chiều mưa, trụ sở vắng ngắt, Sơn nằm trên một cái ghế bố, tôi ngồi
trên một cái ghế bên cạnh, trò chuyện với nhau. Tôi hỏi Sơn về trường hợp sáng
tác của một số bản nhạc. Khi nói về bài Diễm Xưa, khi tôi chưa kịp hỏi về nhân
vật Diễm, thì Sơn đã nói ngay : "Diễm là vẻ đẹp, không đương nhiên phải là
tên một người. Moa viết bài này tại Phan Rang, trong một buổi chiều mưa. Nhìn
những tòa tháp cổ qua màn mưa, cảm khái lắm. Toa đã tắm biển Ninh Chữ của Phan
Rang chưa? "Những vết chim di" trong bài Diễm Xưa là từ bãi biển đó,
sau cơn mưa mỗi bước chân của chim đều ghi dấu trên cát..."
Tôi
tin những lời Sơn nói trong buổi chiều đó là thành thật, nhưng tôi cũng tin là
Sơn không nói hết về mối tình với Diễm. Cái cảm hứng thật sự của một tác phẩm
nghệ thuật khó giải thích từ một nguồn cội cụ thể trong nội tâm tác giả lẫn
ngoại giới, khó dùng một "sự tích" nào để khẳng định từ đó tác giả đã
viết ra tác phẩm.
Người
thưởng thức cứ đón nhận nghệ thuật của tác giả một cách mơ hồ càng tốt. Cố tình
"bóc trần" mọi chuyện ra thì tôi nghĩ cũng chẳng giải thích được gì,
nhất là khía cạnh nghệ thuật của tác phẩm.
Hôm đó Trịnh Công Sơn còn giải thích cho tôi “nguyên ủy” của một
bài khác, đó là bài Nắng Thủy Tinh mà tôi nghĩ nếu không được tác giả nói ra
thì chẳng bao giờ tôi tự hiểu được :
“Hôm
đó moa đang ở Đà Nẵng, buổi chiều mùa hè có một cơn mưa rào khá lớn. Khi mưa
tạnh moa đi bộ trên con đường không nhớ tên gì, chỉ biết nó chạy ngang trường
Phan Châu Trinh. Đến một đoạn có cây trồng hai bên đường, moa đứng sững lại vì
nhìn thấy một cảnh tượng đẹp lạ lùng : ánh nắng xiêng xiêng buổi chiều chiếu
vào hàng cây, mỗi lá cây còn mang một giọt nước mưa ở cuối lá, một loạt giọt
nước bỗng sáng rực lên trong ánh nắng, trong phút chốc ấy trong đầu moa nảy ra
ba chữ “nắng thủy tinh”. Bao nhiêu giọt nước đang lóe lên trong ánh nắng chiều
không còn là nước nữa mà là một đóa thủy tinh đang tỏa sáng. Cảnh tượng đó làm
nền ngay cho một ca khúc :
…..
Chiều đã đi vào vườn mắt
em
Mùa thu qua tay đã bao lần
Ngàn cây thắp nến lên hai hàng
Để nắng đi vào trong mắt em…”
PPMinh (09-09-2022)
PhamPhú Minh
To:Tu Pease,TD NguyenTThai,bichha bui,tvng,Le Huu
May 21, 2019
Cái khuynh hướng "viết như nói" bắt nguồn từ Trương Vĩnh Ký. Nhưng theo tôi đó không phải đặc điểm riêng của cụ mà là chung cho những vị miền Nam cầm bút viết văn quốc ngữ, từ Trương Vĩnh Ký trở đi. Đó gần như là "thuộc tính" của các nhà văn miền Nam.
Cũng khoảng mười mấy tuổi tôi đọc Hồ Biểu Chánh gặp những câu tả con trâu nó đi núng na núng nính, hay tả cành tre bị gió thổi hoặc hòa hoặc hoại tôi thấy tức cười, nhưng cũng phải nhận là ông ấy dùng chữ chính xác tạo nên hình ảnh rất linh động.
Lời nói của người Bắc được đào luyện theo một lịch sử dài của dân tộc sống ổn định trong châu thổ sông Hồng nên đạt đến chỗ chính xác, hay ho, coi như mẫu mực cho văn nói lẫn văn viết. Nhưng trên đường Nam tiến, người Việt Nam gặp và sống với những thổ ngơi lạ, dân tộc lạ, ngôn ngữ lạ và phải thích ứng liên tục để có một cuộc sống mới.
Tôi là dân Quảng Nam là chỗ tâm điểm giữa miền Bắc và miền Nam nên cảm nhận gần như đầy đủ tính chất ngôn ngữ của cả hai miền. Ngôn ngữ và giọng nói Quảng Nam thô cứng gần với miền Nam, khi tôi đọc quyển Chuyện Đời Xưa của Trương Vĩnh Ký, tôi nhận ra vô số ngôn từ Quảng Nam thuộc loại cổ, tôi được nghe nhiều ở quê tôi khi tôi còn nhỏ, nhưng bây giờ hầu hết đã biến mất.
Trong khi đó tiếp nhận tiểu thuyết từ miền Bắc như những mẫu mực chính thống của ngôn ngữ Việt Nam, và chịu ảnh hưởng hoàn toàn ngôn ngữ viết của miền Bắc cho suốt đời học hành viết lách của mình.
Văn chương là sản phẩm của cuộc sống, trong đó ngôn ngữ nơi mình sống là yếu tố quan trọng. Các nhà văn miền Nam đương nhiên viết theo ngôn ngữ miền Nam, chuyện ấy không có gì lạ. Nhưng dù viết theo ngôn ngữ nào, nghệ thuật vẫn là cái quan trọng nhất của sáng tác, và nó quyết định giá trị của từng tác giả. Con trâu nó đi núng na núng nính hay cành tre gió thổi hoặc hòa hoặc hoại cũng vẫn có thể đạt được một giá trị mô tả của nó chứ, phải không ?
ppm
May 18, 2019
Tôi thấy biết một ngoại ngữ là một chuyện,
mà cảm được ngôn ngữ ấy là một chuyện hoàn toàn khác. Nhất là cảm qua thi ca là
cái nơi người ta dùng ngôn ngữ ở trình độ tế vi nhất.
Với trình độ của tôi, tôi có thể đọc
truyện của một số tác giả Pháp hay Anh viết dễ, như Alphonse Daudet của Pháp
hay P. Buck của Mỹ. Nhưng thơ thì tôi chịu. Tôi học ban C, thầy giảng nhiều thơ
Pháp hay Anh, thì cũng biết cũng hiểu vậy, nhưng nói cảm những vần thơ ấy thì
chưa bao giờ.
Nhưng với chữ Hán thì khác, tôi cảm được,
gần như cảm tiếng Việt, mặc dù tôi khá dốt Hán văn. Hễ hiểu được là tôi cảm
được, khác với tiếng Pháp hay tiếng Anh là những thứ tiếng tôi có thể hiểu
nhưng không bao giờ cảm. Tôi nghĩ lý do đơn giản là vì tổ tiên của mình trải
qua hàng ngàn năm dùng chữ Hán như một ngôn ngữ viết chính thức, đã sáng tác,
đã ghi chép mọi chuyện của quốc gia xã hội bằng chữ Hán, thì ảnh hưởng bàng bạc
của Hán tự đương nhiên đã nằm sẵn trong bộ thần kinh và trong tâm hồn của mình
từ vô số kiếp trước.
Tôi nghĩ người Pháp, người Anh, người Đức
v.v... đối với chữ La tinh thì cũng giống như trường hợp của mình đối với chữ
Hán vậy thôi. Một người Pháp mà hiểu tiếng Việt một cách tinh tế thì rất hiếm
hoi.
Hôm kia tôi ghé Người Việt ăn trưa, ông
Toàn nhắc đến linh mục Cras người Pháp có dạy ban Việt Hán của Toàn. Cha Cras
hay chỉnh những câu nói của sinh viên mà ông cho là không đúng tiếng Việt bằng
câu "Người Việt Nam thì không có nói như vậy đâu".
Riêng tôi cũng có học một năm với cha Cras
ở lớp Dự bị Văn Khoa. Một lần giảng về cấu trúc của câu nói Việt Nam, cha Cras
đưa ra một ví dụ: chúng ta thường thấy câu yết thị này trong thành phố :
"Cấm không được đổ rác". Một số người Việt Nam chê câu đó viết thừa
chữ, đã nói Cấm thì không cần dùng
chữ Không được, hoặc "Cấm đổ
rác" hoặc "Không được đổ rác" là đủ rồi, dùng một chỗ hai lệnh
cấm thì dĩ nhiên thừa một.
Nhưng cha Cras không chấp nhận chỉ trích
đó, cha cho rằng nếu dùng theo cách nói đơn giản như vậy thì mệnh lệnh không
được mạnh. Cha nói : "Người Việt Nam có cách ra lệnh rất cứng rắn 'Cấm
không được đổ rác' vì lệnh cấm được lặp lại hai lần trong một câu. Cũng giống
như một người cha răn dạy đứa con : "Ba cấm con không được đi tắm sông một
mình".
Tôi nghĩ cha Cras là một người CẢM được
những nét ẩn mật trong ngôn ngữ Việt Nam.
ppm
May 15, 2019
Cám ơn Vũ đã đưa ra những ý tưởng có tầm vóc, như định nghĩa về vũ trụ chẳng hạn. Lâu nay hầu hết chúng ta vì không mấy khi nghiên cứu những lý thuyết lớn về vũ trụ như Vũ nên cái nhìn vũ trụ chỉ ở phạm vi cảm tính, hoặc dựa trên tôn giáo của mình.
Nhưng tôi vẫn muốn trở lại cái bẫy của chúng ta, vì có lẽ từ đó mới sinh ra mọi chuyện. Con người không tồn tại thì có vấn đề gì mà nói nữa đâu.
Muôn loài động vật đều mang trong thân mình một nhu cầu rất lớn là tình dục, và khao khát được thỏa mãn. Mỗi loài mỗi kiểu thỏa mãn riêng, nhưng mục đích (mà cũng là cái bẫy) là sinh con đẻ cái. Nhiều loài chỉ làm động tác truyền giống theo mùa, thích hợp với cấu tạo cơ thể loài của mình để có mùa thu hoạch tốt nhất. Nói chung việc truyền giống của loài vật là theo bản năng và theo những luật lệ riêng đã được hình thành theo muôn ngàn cảnh ngộ sống, trải qua vô số thời gian.
Nhưng đến con người thì tuy mọi chuyện căn bản vẫn là cái bẫy ấy, nhưng vì người là vật linh trưởng nên quá trình truyền giống phải theo một lớp lang phức tạp hơn. Trong trình độ của loài người như trong hiện tại, thoạt đầu là tình yêu nam nữ, thu hút một người nam và một người nữ vào với nhau. Khi tình yêu đã chín mùi thì tiến tới hôn nhân và trải qua một đời chung sống, trong đó có một nhiệm vụ quan trọng là sinh con và nuôi dạy con cho đến khi khôn lớn.
Mục đích thì chẳng khác gì các loài khác, nhưng "trình độ" thì cao hơn nhiều. Cốt lõi của cái gọi là trình độ ở đây là gì ? Là tình yêu thương. Loài vật chỉ lộ ra chút tình trong giai đoạn nuôi con còn bé bỏng, đến khi con khôn lớn rời khỏi cha mẹ là đi luôn, không cần biết cha mẹ là ai, và cha mẹ cũng không cần biết con là ai, chỉ lo đi kiếm ăn để đẻ lứa khác.
Và đó là cái bẫy êm ái mà hầu hết phàm nhân chúng ta đều lọt vào. Nhưng lại có những cách nhìn khác, biết đó là cái bẫy và nhất quyết tránh không sa vào, ấy là tôn giáo. Nhìn vào hai tôn giáo lớn và gần gũi với chúng ta nhất là Phật giáo và Công giáo, đều có chủ trương những người đi tu theo tôn giáo của họ thì phải diệt dục, mà cái diệt lớn và quan trọng nhất là tình dục, nghĩa là nam nữ tu sĩ đều không được lấy vợ lấy chồng.
Tại sao tu sĩ thì phải đi theo con đường này ? Ắt hẳn phải có nguyên do, xin các bạn cho ý kiến.
ppm
May 14, 2019
Cám ơn Hà đã tham gia ý kiến ngay. Nhưng hãy cho tôi trình bày tiếp những điều dang dở, hay đúng hơn chỉ là vài câu nhập đề chưa trọn vẹn.
Tôi đã nói gì nhỉ. À, cái bẫy vĩ đại mà tạo hóa đã tạo ra mà tất cả các loài động vật đều phải chui vào để sinh sôi nòi giống của mình. Tùy theo trình độ phát triển của mỗi loài, các hành vi để sinh sôi ấy đi từ chỗ hoàn toàn là bản năng, lên dần đến loài người là giống cao nhất thì cái việc truyền giống ấy trở nên phức tạp rắc rối hơn nhiều.
Chắc các bạn nhiều người đã có xem cuốn phim hoạt họa của Walt Disney có tên đại khái là Bamby, lâu ngày có thể tôi nhớ không chính xác cái tên, nhưng nội dung thì tôi không thể quên được. Phim tả cảnh đến mùa tình ái của loài nai, nàng nai xinh đẹp Bamby được nhiều chàng nai đến ve vãn, nhưng nàng đều từ chối, và cuối cùng hình như theo một quy luật có tính chất bản năng nhưng rất có ý nghĩa, các chàng nai phải đấu sức mạnh với nhau, ai vô địch mới được nàng Bamby nhận làm chồng. Cuốn phim cho biết, ở loài nai, phải anh nào mạnh nhất, thắng tất cả các con nai đực khác thì mới có quyền gieo giống để tạo ra thế hệ sau. Đó là sự lựa lọc khá "văn minh", đã một phần nào đó không còn hoàn toàn là bản năng mù quáng nữa mà đã có "ý thức" chọn lựa cái tối ưu cho nòi giống.
Tôi nghĩ trong thiên nhiên vấn đề truyền giống trong mỗi loài đều ít nhiều có những quy luật tương tự, để các thế hệ con cháu được mạnh mẽ. Đó là kết quả của sự sinh tồn trải qua hàng triệu năm, mỗi loài mới dần dần tự lựa chọn lấy một phương pháp để tối ưu hóa sự phát triển của mình. Nhưng đối với loài vật, chủ yếu sức mạnh ấy đều dựa vào bản năng. Chỉ có loài người, là giống "linh ư vạn vật" con đường sinh tồn càng ngày càng rắc rối, đến nỗi chúng ta đang và sẽ gặp rất nhiều thái độ khác nhau về chính sự sinh tồn của mình.
Thưa các bạn, viết đến đây tôi thấy mình cũng đã tự nguyện một cách dại dột đi vào một cái bẫy do mình giăng ra. Vấn đề của con người đột nhiên mênh mông quá, khác hẳn sự đơn giản của loài vật, làm cho mình choáng ngợp không biết phải bắt đầu từ "chương" nào. Xin các bạn góp ý để cứu bồ nhé.
Hẹn ngày mai.
ppm
May 13, 2019
T. ơi,
Sáng nay lúc 10 giờ tôi thức dậy, xem các thư từ mới và định viết thư cho T., nhưng mới viết hai chũ "T. ơi" thì có tiếng chuông cửa. Hai ông T.T. và V. nhỏ tới rủ đi ăn sáng. Buổi đi ăn sáng kéo dài, vì anh NDC sau bữa ăn lại rủ cả bọn về nhà anh ấy uống trà. Trà nhà anh C. toàn là đệ nhất danh trà, và cách pha trà cùng những bộ đồ trà của anh C. thì tất cả bạn bè đều biết danh.
Mãi 2 giờ chiều mới về tới nhà, và giờ này mới ngồi vào để tiếp tục bức thư cho T., sau khi đọc thêm mấy thư mới.
Chúng ta hôm nay lại "luận anh hùng", một đề tài chẳng mấy khi chúng ta đụng tới trước đây, có lẽ vì chúng ta không có sẵn cái "văn hóa anh hùng" trong huyết quản.
Tại miền Nam trước 75 ngôn ngữ của chúng ta cũng ít khi dùng tới hai chữ anh hùng, ngoài những khi bỡn cợt với những chữ như "anh hùng xa lộ", "anh hùng Lương Sơn Bạc" (để chỉ kẻ cướp có nghĩa khí), hoặc... "anh hùng Xạ Điêu". Toàn là những kiểu nói trời ơi đất hỡi, không mang tính ca ngợi, cũng không tỏ lòng kính phục một cách đứng đắn. Ngôn ngữ chính trị hay tuyên truyền trong chiến tranh hay trong báo chí, miền Nam rất ít khi hoặc chẳng bao giờ dùng chữ anh hùng để vinh danh những tấm gương cao cả. Đối với cuộc sống miền Nam, hai chữ "anh hùng" hình như chỉ để dành cho những nhân vật lừng lẫy trong quá khứ, hoặc trong sách kiếm hiệp của Tàu, chứ không dùng cho hiện tại.
Nhưng miền Bắc thì ngược lại, họ chủ trương cuộc chiến tranh thanh toán miền Nam, và họ có cả một "chủ nghĩa anh hùng". Họ tạo ra cả một guồng máy tuyên truyền cho chủ nghĩa này, nhằm thúc đẩy tinh thần hy sinh trong mọi tầng lớp xã hội cho cuộc chiến. Người cày ruộng thì có anh hùng sản xuất, lính phòng không thì có anh hùng bắn máy bay, trong chiến trận thì họ khai thác nhiều tình huống để đặt ra đủ loại anh hùng, rất nhiều trường hợp sẵn sàng bịa ra, như những anh hùng Nguyễn Văn Trỗi, anh hùng Nguyễn Văn Bé (riêng trưởng hợp Nguyễn Văn Bé họ đã bị hố to : anh ta bị phe quốc gia bắt được trong trận chiến, họ tưởng là đã chết rồi nên viết ra cả một kịch bản ly kỳ về sự hy sinh của anh ta. Bên phe miền Nam cứ để cho bên VC tuyên truyên đã đời một thời gian, mới đưa Nguyễn Văn Bé ra trình diện với báo chí, với truyền hình và anh ta đã tuyên bố một câu rất nổi tiếng hồi ấy : "Tôi Nguyễn Văn Bé hãy còn sống đây.") Thế là "anh hùng Nguyễn Văn Bé" đột nhiên tịt ngòi trong hệ thống tuyên truyền của cộng sản.
Nhưng tại miền Bắc có một loại anh hùng mà tôi cho là tội nghiệp nhất : "các bà mẹ anh hùng". Vì trận chiến tại miền Nam quá lớn, lại gặp một hỏa lực quá hùng hậu, quân miền Bắc tổn thất rất nhiều, họ phải đôn quân liên tục, và rốt cuộc, họ phải vét nhẵn thanh niên, thậm chí các cậu bé 15, 16 tuổi cũng phải vào quân đội. Sá chi những bà mẹ 9 con !? Trong guồng máy tuyên truyền của họ thời đó, "các bà mẹ anh hùng" đã lừng danh lắm rồi, càng vét sạch con cái của các bà, họ càng tung hô các bà là anh hùng.
Và chúng ta không lạ, sau khi miền Bắc đã chiếm được miền Nam thì hai chữ anh hùng càng được nhắc đến nhiều, đến nỗi cuối cũng đã xuất hiện câu : "ra ngõ gặp anh hùng" với tất cả nét mỉa mai của nó.
Tôi vừa mạn phép đưa ra cái bối cảnh trong đó phát sinh ra các loại anh hùng, trong đó có "bà mẹ anh hùng" (mà không ít người dân miền Nam cũng nhiễm quen lối gọi ấy, một cách ý thức hoặc vô thức). Còn thật sự hai chữ anh hùng bản chất nó là gì, xin hẹn một dịp khác.
ppm
Feb. 13, 2019
Thân gửi các bạn,
Theo tôi, tác phẩm của
Doãn Quốc Sỹ thành công nhất là trong thời gian cuối thập niên 1950, đầu thập
niên 1960. Tôi nhớ hồi tôi mới vào Đại học thì Dòng Sông Định Mệnh đang nổi như
cồn, sinh viên hay bàn tán xôn xao. Rồi tiếp theo là Ba Sinh Hương Lửa, cuốn
đầu của bộ trường thiên của ông, cũng tiếp tục nổi tiếng, và riêng tôi bị tác
động khá nhiều. Một cách chủ quan, tôi cho đây là cuốn hay nhất của ông.
Khi tôi lên Đà Lạt để học
Sư phạm năm đầu tiên 1961-62 thì cuốn Ba Sinh Hương Lửa cũng vừa xuất bản.
Trong không khí mát mẻ và nếp sống êm đềm trên cao nguyên, tôi đọc say sưa cuốn
sách này, và bây giờ nhìn lại, tôi thấy đây là cuốn tiểu thuyết Việt Nam cuối
cùng mà tôi cho là HAY. Có thể vì nó tác động quá mạnh vào tâm hồn tôi lúc đó.
Bây giờ tôi không còn nhớ
rõ các tình tiết của cuốn sách, nhưng chủ đề lớn là vấn đề xung đột quốc cộng,
ít nhất là những gì còn giữ lại trong tâm trí của tôi bây giờ. Bước vào tuổi
thanh niên là tôi bắt đầu giương to mắt để nhìn vấn đề ấy, như một thao thức,
như một lo sợ và ưu tư. Những gì tôi đã thấy từ 1945, rồi đi tản cư và hồi cư,
trên chính quê hương Quảng Nam của tôi, là sự thanh toán nhau giữa hai phe quốc
và cộng. Các năm 1946, 47 phe cộng sản thủ tiêu khá nhiều các đảng viên Quốc Dân
Đảng, trong đó có một ông anh chú bác ruột của tôi mà tất cả anh em trong gia
đình tôi đều yêu mến. Đến năm 1954 đình chiến, phe Quốc Dân Đảng nắm quyền tại
các quận trong tỉnh, một đợt giết chóc các cán bộ CS nằm vùng lại xảy ra ồ ạt.
Dân Quảng Nam có một đặc tính là về chính trị thì không khoan nhượng, nên sự
sát phạt lẫn nhau tôi nghĩ là nặng nề hơn tất cả các địa phương khác trong
nước.
Với tâm thức ấy tôi đọc
Ba Sinh Hương Lửa và thấy thấm thía cái nhìn của tác giả về cùng vấn đề. Một
buổi chiều tôi nằm đọc lại đoạn tác giả tả chuyến tàu lửa của chính quyền Việt
Minh khoảng cuối 1946 chở tù nhân là các chiến sĩ phe quốc gia đi Cốc Lếu, chắc
là để nhốt vào một trại giam trên rừng núi để thủ tiêu dần, tự nhiên tôi bật
khóc, khóc thảm thiết, khóc rất lâu. Từ nhỏ tôi là một đứa bé rất dễ khóc, đến
độ các anh chị tôi đặt cho biệt danh là "Mít Ướt", nhưng từ khi qua
khỏi tuổi thiếu niên thì tôi không bao giờ khóc nữa, tự giữ mình cứng rắn để
chữa cái bệnh ủy mị lúc nhỏ. Nhưng buổi chiều ấy tôi khóc thật sự, khóc vùi,
sưng cả mắt. Và cho tới nay, đó vẫn là "trận khóc" lớn nhất đời tôi,
vì sau này ra đời gặp bao thăng trầm, đau khổ tôi cũng không bao giờ khóc.
Ông Doãn Quốc Sỹ đã cho
tôi một trận khóc để đời, coi như một cái điềm mách bảo cho tôi một tương lai
chính trị không vui. Mười mấy năm trong tù CS tôi vẫn nhớ trận khóc ấy, và thấy
mọi sự có liên lạc với nhau, cái này báo trước cho cái kia, giống như nàng Kiều
đi Thanh Minh về tối chiêm bao thấy Đạm Tiên vậy. Tác giả Ba Sinh Hương Lửa là
một Đạm Tiên đã mách trước cho tôi --và không ngờ cũng cho chính ông nữa-- ngày
CS thắng trận, và những gì đến với người quốc gia.
Nhưng sau Ba Sinh Hương
Lửa thì tôi không đọc Doãn Quốc Sỹ nữa. Đúng ra tôi có tiếp tục mua những cuốn
kế tiếp của bộ trường thiên Khu Rừng Lau nhưng tôi đọc không vô nữa. Nhưng với
tôi, một Ba Sinh Hương Lửa là đủ lắm rồi.
Những dòng chữ trên đây
dĩ nhiên không phải là phê bình, nhận định văn học gì cả. Chỉ là một mảng tâm
sự có lẽ khá quan trọng của đời tôi liên quan đến sách vở, vì gặp duyên mà nó
mới hiện hình và khiến tôi chia sẻ với các bạn.
May quá, ông Doãn Quốc Sỹ
vẫn còn, như một chứng nhân thầm lặng cho những điều tôi vừa viết.
ppm
Feb. 14, 2019
Cám ơn các bạn đã chia sẻ
với mảng tâm sự của tôi. Mà tâm sự ấy chỉ xuất hiện rõ nét khi tôi theo dõi các
bàn tán của cả nhóm về Doãn Quốc Sỹ.
Vấn đề không phải là
chống cộng, vấn đề là sự tương tàn. Có lẽ vết thương sâu kín trong tâm khảm của
tôi kéo dài qua tuổi thiếu niên đã bùng nổ vào tuổi thanh niên với chuyến tàu
đi Cốc Lếu của Doãn Quốc Sỹ. Vết thương đã có sẵn, Ba Sinh Hương Lửa chỉ làm
bùng phát ra tất cả thương đau của nó, khiến người mang nó lâu nay nhận thức
ra, và chỉ biết khóc vùi.
Kiều cũng khóc. Nhưng tại
sao Kiều lại khóc trong khi Thúy Vân vẫn bình thản, và con chê bà chị khéo dư
nước mắt ? Chỉ vì Kiều mang sẵn vết thương trong lòng, như một nghiệp chướng
mai phục sẵn trong kiếp sống của mình. Vết thương đó là "hồng nhan bạc
mệnh", hoặc "hồng nhan đa truân", nên thoạt nghe câu chuyện của
Đạm Tiên là Kiều động lòng rơi nước mắt ngay. Có cảm mới có ứng. Còn cô Thúy
Vân nghiệp chướng nhẹ nhàng, sau này chồng con đề huề, thì sẵn sàng buông một
lời phán "khéo dư nước mắt khóc người đời xưa". Cô ấy có hiểu gì đâu,
lòng cô ấy thanh thản, sáng trưng.
Tôi cũng có "tâm
bệnh" như Kiều, là mang trong tâm thức của mình từ hồi còn nhỏ sự tương
tàn trên sân khấu chính trị. Thoạt đầu trong phạm vi gia đình mình, rồi càng
lớn càng biết thêm về địa phương mình, rồi biết thêm nữa đó là vấn đề của quốc
gia. Cái khóc của tôi từ năm 1961 không có chút ý thức nào về bản thân cả, ví
dụ chính mình sẽ là một nạn nhân của cuộc tương tàn ấy, không. Nhưng cái khóc
ấy đã thấp thoáng thấy cuộc nội chiến rồi sẽ tàn khốc, và khóc vì một linh cảm
như nàng Kiều trước mả Đạm Tiên. Chỉ khác Kiều là tôi không có cô em Thúy Vân
bên cạnh thôi.
Bây giờ, đây là lần đầu
tiên tôi thú nhận với bạn bè của tôi về trận khóc có thể đáng xấu hổ nhưng cũng
đáng thương tâm ấy. Nó không hay không dở, nó chỉ nhằm chứng minh rằng, một khi
"đã mang lấy nghiệp vào thân", thì nên biết rằng không nên phủ nhận
nó, không phiền hà gì nó, vì nói cho cùng, nó chính là mình vậy.
ppm
To:Thiet NguyenTuong,TD NguyenTThai,Huu-Seattle Le,minh pham,bichha
bui
Sep 30 at 3:58 PM
Dear All,
Cháu Tiêu Dao con gái của Thái mới in tập Thơ song ngữ ở Việt Nam.
Cháu vừa đến Seattle( ở nhà tôi) 3 ngày để RMS. Mới về sáng nay.
Tập Thơ trình bầy như thế này ở ngoài Bìa
Mình
You
Sẽ
Will
Luôn
Always
Là
Be
Người
Some-
Nọ
One
Đến
From
Từ
Some-
Nơi
Where
nọ
else
Tôi góp ý với cháu là dịch chữ
"nọ" không hay và không thơ. (Người dịch là một cô đang
finishing her PhD in San Diego về personal and political of human geographic
stories) cô này là du học sinh, lớn lên ở VN, nên khi cô dịch Thơ cô dùng chữ
khá "hoành tráng" khá cầu kỳ.
Cháu Tiêu Dao nhờ tôi kêu gọi nhưng người bạn viết văn của Mẹ (và
cả mẹ Thái) dịch lại cái tựa theo ý mỗi người, rồi Tiêu Dao sẽ làm 1 trang - như
một bài Thơ với phần dịch này.
Dao có ý nhờ chúng mình, những
người viết, dịch khác nhau, theo sự hiểu về ý nghĩa của câu trên như thế nào.
Xin mời tham gia.
tmt
Le Huu
To:Tu Pease,Thiet NguyenTuong,TD NguyenTThai,minh pham,bichha bui
Oct 1 at 7:57 AM
Ý chị Tú là dịch câu ấy sang tiếng Việt?
Kể ra không biết nội dung của tập thơ thì không
dễ dịch cho đúng (như không rõ vì sao "you" lại là "mình).
Thường thì câu tiếng Việt chỉ dịch lấy ý, sao cho gọn, ngắn hơn
câu ngoại ngữ càng tốt. Xin tạm dịch:
You will always be someone from somewhere else =
Bạn luôn là ai đó đến từ đâu đó (hoặc "...từ nơi
khác").
LH
tvng
To:Le Huu,Tu Pease,TD NguyenTThai,minh pham,bichha bui
Oct 1 at 10:26 AM
Tôi chịu. Không phải là tôi không dịch nổi. Mà là không hiểu ý tác
giả muốn nói gì. Nếu chỉ tách câu ấy thôi thì câu ấy, theo tôi, tối tăm và vô
nghĩa. "Bạn luôn luôn là ai đó đến từ đâu đó". What it means?
Đẩy mạnh trí tưởng tượng: hay là tác giả muốn nói tư tưởng Albert
Camus trong Létranger? Nếu thế thì phải dịch: mình là kẻ xa lạ đối với chính
mình.
Thiết
To:Tu Pease,TD NguyenTThai,minh pham,bichha bui,tvng
Oct 1 at 12:34 PM
Anh Thiết nói đúng, ko hiểu hoặc ko hiểu rõ thì
bó tay. Khi dịch tôi nghĩ đến đề tài..."di dân" cho có tí make
sense.
Cái này cũng tựa Đố Vui Để Học (chị Tú biết
rõ hơn ai hết là thơ thì khó mà dịch, "chuyển ngữ" thì may ra).
LH
To:Tu Pease,TD NguyenTThai,bichha bui,tvng,Le Huu
Oct 1 at 2:06 PM
Sự "nhờ vả" của Tú tình cờ mà có thể biến thành một
câu chuyện thú vị. Thoạt đầu nhìn thư của Tú, tôi nghĩ ngay : Ôi dào, đây là
thơ, hơi đâu mà dịch.
Nhưng rồi Lê Hữu vào cuộc, rồi Nguyễn Tường Thiết góp ý, tôi
cũng thấy... động lòng. Câu dịch của Lê Hữu tôi thấy sát (về nội dung) và hay
(về ngôn từ), hay hơn câu của cô gì dịch trước nhiều. Và tôi tưởng là mọi người
có thể tạm dừng ở đó, nhưng anh Thiết lại nhảy vào và hô lên : What it means?
Lê Hữu đã dịch đúng câu đó sang tiếng Việt, và tôi nghĩ chừng đó
là đủ rồi, không cần biết tập thơ nói những gì. Gọi là dịch, hay chuyển ngữ,
hay phóng tác gì cũng được, miễn là diễn được cái nghĩa của câu đó một cách đầy
đủ, như thế Lê Hữu đã xong nhiệm vụ. Còn việc câu ấy mean cái
gì thì tôi nghĩ tùy vào người đọc. Một câu đơn sơ như thế, nhưng vì nó
là thơ, có thể mỗi người hiểu một khác, cảm một khác. Đó là việc của người
đọc.
Như vậy anh Thiết cũng có cái lý của anh, khi thấy câu ấy không có
nghĩa lý gì cả.
Riêng tôi, ngẫm nghĩ lại, tôi vẫn thấy thơ là một sản phẩm kỳ lạ
của con người. Đã có ngôn ngữ, con người có thể trao đổi nhau đủ thứ chuyện để
sống với nhau và đẩy cuộc sống ngày một cao hơn, nghĩa là no ấm hơn, công bằng
hơn v.v... nhưng tại sao lại nảy ra việc "làm thơ" ? Thơ hoàn toàn
không dính dáng gì với những cái cụ thể trong đời sống chúng ta cả, nó nói về
một mặt khác của tâm hồn chúng ta mà ngôn ngữ của cuộc sống thường nhật không
đảm trách được.
Đang sống yên ổn phẳng lặng bỗng một ông nổi hứng hô lên :
Hôm nay trời nhẹ lên cao
Nhiều người quanh ông ta có thể đến sờ trán ông ta xem có nóng
không. Trời ở trên cao thì ai chẳng biết, rồi việc gì phải nói đến cân lượng
của trời hôm nay nhẹ, còn hôm qua thì nặng ? Ông ta muốn nói cái gì thế ?
Dần dần người ta mới nhận ra là ông ta đang cố diễn tả một cái
gì u ẩn trong lòng ông ta, và cũng dần dần người ta thấy rằng điều ông ta nói
mình cũng có trong lòng --nghĩa là mình có thể cảm ứng với ông ta, nhưng
"hiểu", giảng giải ra thì chưa chắc làm được. Đó là thơ.
Với câu
You will always be someone from somewhere else =
Bạn luôn là ai đó đến từ đâu đó (hoặc "...từ nơi
khác").
tôi cho là một câu thơ đúng nghĩa, vì nó diễn tả một thắc mắc,
hoặc một trạng thái nào đó đang nung nấu trong tâm hồn thi sĩ, giống y như để
trả lời cho câu hát của Phạm Duy trong bài Xuân Hành :
Người là ai ? Từ đâu tới ?
Và người ơi người sẽ bước chân về nơi đâu ?
Những khuất lấp trong tâm hồn chúng ta thường gồm cả những thắc
mắc siêu hình như thế, và hình như từ đời xưa đến nay vẫn thường được diễn tả
bằng thi ca. Những khúc mắc muôn đời không giải xong.
Tôi xin cầu viện thêm một câu của Nguyễn Hưng Quốc, có vẻ cũng
muốn giải mã thi ca :
“Nhờ nhà thơ, con người
nhìn thấy rõ hơn diện mạo tâm hồn mình. Xưa kia tâm hồn u uẩn quá. Nó là cõi
đêm, là giông tố sấm chớp nhưng cũng mù mịt vô cùng. Nhà thơ là kẻ lặn sâu hơn
ai hết vào cái vùng bất an vô định ấy.”
Và thêm một câu của Bùi Giáng nữa, cho chắc ăn :
“Đi vào giữa trung tâm bão giông một lúc thì
lập thời ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức.”
ppm
On Monday, 1 October 2018, 14:26, Thai Nguyen wrote:
Wow! Anh Minh đã viết một bài post lên DĐTK được đấy. Td
From: PhamPhú Minh
Sent: Wed, Oct 3, 2018 7:01 pm
Subject: cụ Hà Thượng Nhân
Anh
biết tiếng cụ Hà Thượng Nhân từ lâu trước 1975. Hồi đó anh là học trò, sức mấy
dám mon men đến các văn nhân đã thành danh như Hà Thượng Nhân.
Mãi
khi ra hải ngoại, anh xuất bản cuốn Hà Nội Trong Mắt Tôi năm 1994, anh Lê Đình
Điểu tổ chức ra mắt sách tại San Jose, có mời cụ phát biểu nhận xét về cuốn
sách. Anh hoàn toàn bất ngờ thấy cụ đánh giá lối viết tùy bút của anh rất cao,
thậm chí so sánh với tùy bút của Nguyễn Tuân. Một văn nhân kỳ cựu mà phát biểu
như thế, anh cảm động lắm, và thêm tự tin nữa.
Từ
đó anh và cụ vẫn thỉnh thoàng liên lạc với nhau, nhất là khi viết về Tạ Ký, anh
liên lạc với cụ để thêm thông tin, vì mặc dù anh thân với anh Tạ Ký, anh vẫn cần
ý kiến của những người khác lớp trên, cũng thân với Tạ Ký. Lúc đó là khoảng đầu
thập niên 2000, cụ Hà Thượng Nhân đã viết cho anh cả một bài cặn kẽ về Tạ Ký.
Cụ
Hà Thượng Nhân được sự kính nể của anh em văn nghệ hải ngoại. Cụ làm thơ hay,
trước kia phụ trách mục thơ Đàn Ngang Cung của nhật báo Tự Do. Và trong quân đội
hình như cấp bậc của cụ là Đại Tá.
Rồi
đến một năm nào đó, cụ qua đời.
Còn
phần em, tại sao hôm nay em cần hỏi anh về cụ Hà Thượng Nhân ?
ppm
TuongThiet
Nguyen Aug 6 at 2:37 PM
Mà
anh Minh cũng tài nữa: có mấy người nghe nhạc Phạm Duy mà hiểu thấu và suy diễn
tài tình lời và ý nhạc Phạm Duy như anh Minh. Phải có một tâm hồn đồng điệu nào
đó với tác giả và một trực giác bén nhậy lắm mới nối kết được cái “xưa” và cái
“nay” như anh Minh đã từng phân tích bài hát Dạ Hành.
Thiết
Le Huu
Aug 9 at 7:05 PM
Anh Thiết
ơi,
Về cái "tài" nghe nhạc Phạm Duy và cái "trực giác bén nhạy"
ấy của anh Minh thì tôi được biết từ lâu rồi chứ không đợi tới bài Dạ Hành này,
hay Thuyền Viễn Xứ, Xuân Ca... Gửi các anh chị bài anh Minh viết về bài hát Một
Bàn Tay (nếu chưa đọc) mà NS Phạm Duy ngày ấy rất lấy làm "tâm đắc",
gửi đi cho nhiều người đọc và khoe rằng chỉ có nhà văn Phạm Xuân Đài là
"tri kỷ":
LH
Tu Pease
Aug 9 at 8:09 PM
Yes, Tôi
cũng thich bài viết này lắm, khi anh Minh post trên DĐTK. Anh Minh viết
phê bình văn chương HAY vì anh đọc theo cái tâm tưởng của nhà văn.
tmt
PhamPhú Minh
Aug 9 at 8:32 PM
Tú vừa phát biểu một ý
hơi lạ nhưng rất hay.
Phê bình không theo
ngôn ngữ của nhà phê bình nhưng theo tâm tưởng của nhà văn.
Tốt hơn hết đừng nên
gọi những bài như thế của tôi là bài phê bình. Phê bình là một ngành cần có
trình độ cao, đọc rộng, biết nhiều mới có thể "phê" người khác.
Còn những bài như Bàn
Tay chẳng hạn, chỉ là một loại bài viết giống như tùy bút, dựa vào tác phẩm của
người khác mà "tán" theo ý mình. Chính vì điểm này mà Tú nhận định "theo cái tâm tưởng của nhà văn".
Đó là một
nhận xét rất tinh tế của nhà thơ vậy. Thế mới gọi là tri kỷ trên đời.
ppm
PhamPhuMinh
:
Cám
ơn anh Thiết.
Tôi
nghĩ mỗi người có một mối đồng cảm với một tác giả nào đó, thơ, văn, nhạc và cả
hội họa, mà câu thường dùng nhất là "đồng thanh tương ứng".
Có
một lần duy nhất tôi viết một bài trong đó có đoạn "chê" bài Tình Ca
của Phạm Duy, như thế mới cả gan. Nguyễn Xuân Hoàng đăng trên báo Văn khoảng
năm 2002, 2003 gì đó, trong một số đặc biệt về Phạm Duy. Nhạc sĩ gặp tôi, chỉ lặng
lẽ gật gật cái đầu, ra vẻ gửi tín hiệu "tôi đã hiểu rồi".
Trước
khi Phạm Duy mất một thời gian không dài lắm, anh có gửi một email cho tôi cho
hay anh sửa một ít lời trong bài Khúc Ca Ly Biệt (lời Việt cho Chanson de
Solvejg của Grieg). Bài viết về cái chết tuyệt hay, tôi mê từ hồi còn trẻ. Ở
phân đoạn 2 có câu
Người
đi về mai sau
Nghe khóc
lóc xe tang đưa sầu
Nghe
bóng xế khăn sô bay ngang đầu...
Phạm
Duy bảo thay hai chữ khóc lóc thành lóc cóc, nghe
lóc cóc xe tang đưa sầu, tôi điếng cả người.
Cách
đó mấy dòng có câu
Người
về dần trong cõi mồ
Như
lúc nào vừa mới ra đời
Chào
đón xuân tươi ngày mới
Anh
dặn sửa chữ mồ thành chữ mơ, người về dần
trong cõi mơ.
Đến
đây thì tôi hiểu tâm trạng của ông già ngoài chín mươi, ông nhìn cái chết thản
nhiên rồi, không khóc lóc nữa mà chỉ có tiếng lóc cóc của
chiếc xe ngựa đưa tang, có thể nghe cũng vui tai ! Và cõi mồ thành cõi
mơ, diễn tả một tâm thức nhẹ nhõm thảnh thơi lắm rồi...
Rõ
ràng đó là lời nhắn gửi cuối cùng của Phạm Duy cho tôi : Tôi đã nhìn
ra cõi đó rồi, chẳng sao cả, thích lắm...
Xin
chia sẻ với các bạn.
TuongThiet Nguyen
Aug 9 at 9:26 PM
Đọc những bài viết của anh Minh về nhạc Phạm Duy tôi không bao giờ
nghĩ anh viết một bài phê bình mà là anh viết một bài phân tích với trực giác
của một nhà văn.
Tôi nghe cả ngàn lần bài Cỏ Hồng của Phạm Duy đến gần như thuộc
lòng. Thế mà lần đầu tiên đọc bài viết của Phạm Phú Minh về bài Cỏ Hồng tôi
ngạc nhiên khám phá ra là trước đó tôi chưa "biết" gì cả về ca từ của
bản nhạc này, chỉ mang máng biết nó là một bản tình ca nhẹ nhàng thơ mộng.
Đọc bài của anh Minh tôi mới hiểu rõ: thế nào là rước em
lên đồi, cỏ hoang ngập lối…
Phải là người đi vào ruột của tác giả như anh Minh mới
"tán" hay như thế!
Xin anh gửi lại bài viết của anh nhé!
Thiết
PhamPhú
Minh Aug 9 at 9:52 PM
Sau
khi về Việt Nam, ông Phạm Duy có chuyển cho tôi bài Cỏ Hồng do các ca sĩ trong
nước mới hát, có một cô vừa hát vừa thở hổn hển y như đang... ở trên đồi vậy.
Tôi
đang tìm bài anh Thiết nhắc, không biết bỏ quên ở đâu rồi. Có thể tôi chỉ nói
chuyện với anh về Cỏ Hồng thôi chứ không có viết bài. Có thể lắm !
ppm
Bichha
bui Aug 9 at 10:42
PM
Theo ngu ý riêng của bbh thôi nhé! Anh Minh viết (muốn gọi bài
viết của anh là gì thì gọi) về tác phẩm của người này người kia rất hay là vì
cá tính nhậy cảm, sống hết mình của anh trong mỗi tình huống anh bắt gặp và để
lòng rung động. Nói như Tú, với tâm thế một nhà văn nhiều khi vẽ vời hoa hòe
hoa sói, khoe mình nhiều hơn thưởng thức tác giả, đọc thấy ớn.
Riêng bài Cỏ Hồng, khuynh hướng erotic (một thứ erotic thăng hoa
đến mức tuyệt mỹ) của Phạm Duy thấy rõ. Đôi chân xinh xinh như tình
thôi khép nép, hãy vứt chiếc dép, bước chân lên cỏ mềm. Đồi
nghiêng nghiêng mặt trời yêu đương...Tha hồ mà tán anh
Minh ơi!
PhamPhú
Minh Aug 9 at 10:52
PM
Mừng
email của Hà đã phục hoạt trở lại.
Rất
chịu ý này của Hà : một thứ erotic thăng hoa đến mức tuyệt mỹ.
ppm
Tu
Pease Aug 9 at 11:07
PM
Theo Tú thì khi hát những lời trong bản nhạc này, Ai muốn tưởng
tượng cái mức độ lãng mạn tới đâu tùy theo tâm cảm của người đó, vì cả bài
không có chữ nào rõ rệt, dù nó rất lãng mạn, rất đẹp. Nghĩ là erotic cũng được,
nghĩ là innocent cũng được. Cái HAY là ở đó.
tmt
TuongThiet
Nguyen Aug 10 at 8:13 AM
Đồng
ý với chị Tú. Lời trong bài Cỏ Hồng rất thanh, nên hiểu theo nghĩa nào
cũng được, cái HAY là ở chỗ đó. Trong số các nhạc sĩ ông Cụ tôi thích nhất Đặng
Thế Phong, nhưng riêng về ca từ ông thích nhất Phạm Duy. Ông nói: “người về ấm
lũy tre xanh” sao mà hay thế!
Thiết
PhamPhú
Minh Aug 10 at 11:25
AM
Điểm "chết người" của Phạm
Duy là cái "rất thanh" anh Thiết vừa viết. Ngụy trang cực kỳ tài
tình, kẻ thính tai thính mũi lắm đôi khi mới tình cờ đánh hơi ra.
Thú
thật với anh Thiết, tôi biết bài Xuân Ca khá sớm, nhưng không hề nghi ngờ chút
nào chuyện "gối chăn phòng the đón cha mẹ về" lại xảy ra sờ sờ ở câu
sau
Xuân
âm u
lắt
leo trong nguồn suối mơ
Bừng reo
rồi
theo nắng lên từ cha chói chang lòng mẹ
Đến
một lúc bất cứ anh đàn ông nào cũng phải hiểu bừng reo ở đây
chỉ trạng thái gì. Không bừng reo thì chẳng làm ăn được gì cả.
Rồi
cách ẩn dụ nhằm ngụy trang của hình ảnh nắng lên từ cha chói chang lòng
mẹ làm cho nhiều người mắc lừa lắm, đến nỗi khi đọc mấy chữ dịch ý
sang tiếng Anh thì thấy sỗ sàng quá !
Đến
Cỏ Hồng thì nghệ thuật che giấu đã tuyệt luân, đến nỗi nếu muốn dịch sang một
ngoại ngữ thì không biết nên lấy ý nào. Bởi vì ở Có Hồng mọi chuyện ẩn trong
ngôn ngữ -một cách rất tế vi- chứ không nhằm mô tả sự kiện. Chúng ta không bắt
quả tang được một sự kiện nào để giao cho cảnh sát kiểm tục cả, vì có gì cụ thể
đâu. Nhưng có những âm thanh vang lên gợi liên tưởng, và chính sự dìu dặt của
âm nhạc trong Cỏ Hồng là thủ phạm quan trọng trong sự gợi hình gợi ý ấy. Sự
cộng hưởng giữa từ ngữ và âm nhạc ở đây đạt mức độ rất cao.
Xâm
phạm thuần phong mỹ tục thì nhiều người thấy rõ, chính tác giả cũng giúp giải
nghĩa cho bạn bè (và ca sĩ) hiểu, nhưng ra tòa thì chẳng có bằng cớ gì cả. Thế
là hòa cả làng.
ppm
Wed, Aug 1, 2018 12:04 pm
From: Phạm Xuân Đài