Wednesday, July 30, 2014

Đưa tiễn Quỳnh Giao

(Đã được tác giả Phạm Xuân Đài đọc trong buổi tưởng niệm ca sĩ Quỳnh Giao vào trưa ngày 30 tháng 7, 2014 tại nhà quàn Peek Family, Westminster (Nam California), trước giờ hỏa thiêu).



Kính thưa quý vị,

Hôm nay chúng ta tiễn đưa một người bạn nghệ sĩ của chúng ta về cõi vĩnh hằng với rất nhiều nuối tiếc. Đối với riêng tôi, nỗi tiếc nuối rất sâu đậm, vì từ lâu tôi đã nhận ra và cảm phục Quỳnh Giao là con người rất mực tài hoa. 

Quỳnh Giao đã được nuôi dưỡng trong giai đoạn trưởng thành của nền tân nhạc Việt Nam, đã được học hành đến nơi đến chốn trong trường Quốc Gia Âm Nhạc của Việt Nam Cộng Hòa, đã đậu thủ khoa khi ra trường, đã sống trọn vẹn trong môi trường âm nhạc từ trong gia đình ra ngoài xã hội, từ nhỏ đến lớn, từ trong nước ra hải ngoại. Tài năng về âm nhạc của Quỳnh Giao chắc chắn hôm nay sẽ được những người trong giới âm nhạc nói tới. Nhưng khả năng và kiến thức về âm nhạc, nghệ thuật còn thể hiện trong lãnh vực viết lách, có thể nói cho tới giờ phút này, ít ai có được những thuận lợi để viết về âm nhạc Việt Nam trong thời kỳ của mình hơn là Quỳnh Giao.

Với lợi thế lớn lên trong gia đình của đôi nghệ sĩ nổi tiếng Dương Thiệu Tước-Minh Trang, lại tham gia vào thế giới âm nhạc từ thủa bé, Quỳnh Giao đã tích lũy không biết bao nhiêu là kỷ niệm và sự quen biết với các nhạc sĩ, ca sĩ, bao nhiêu là kiến thức về các tác phẩm và các sinh hoạt âm nhạc đủ loại của suốt thời gian sống tại miền Nam. Đọc Quỳnh Giao, người ta mới thấy tác giả đúng là một cuốn tự điển sống về cái thế giới ấy, một cây bút đầy linh động không chỉ vì sự hiểu sâu biết kỹ, mà còn vì khả năng diễn đạt bằng văn chương những chỗ uẩn áo của âm nhạc phát tiết ra nơi từng người nghệ sĩ, dù là người sáng tác hay là người trình diễn. Nếu ai có ý định viết về nhạc sử của miền Nam trước 1975, tôi nghĩ người ấy cần tham khảo rất nhiều bài viết về âm nhạc của Quỳnh Giao.

Nhưng có lẽ ít người trong chúng ta được biết là Quỳnh Giao còn có con mắt nhìn nghệ thuật tạo hình một cách đặc sắc. Khoảng thời gian từ 1995 đến khoảng năm 2000, tại trụ sở của ba cơ quan văn hóa là đài phát thanh VNCR, hội VAALA và tòa soạn báo Thế Kỷ 21 tại đường Acacia, Garden Grove, một nhóm người đã cùng nhau hoạt động rất vui tươi và hiệu quả. Cùng với anh Lê Đình Điểu, anh em chúng tôi như Vũ Ánh, Lê Văn Khoa, Đinh Quang Anh Thái, Ngô Mạnh Thu, Becky Ngô, Quỳnh Giao, Trần Đại Lộc, Phạm Phú Minh, Hoàng Trọng Thụy vân vân... đã quây quần để làm công tác truyền thông và văn học nghệ thuật. Hồi đó Quỳnh Giao mỗi tuần phụ trách một chương trình về âm nhạc cùng với Lê Đình Điểu trên đài VNCR, có số thính giả mến mộ rất đông. Một lần tại trụ sở ấy chúng tôi tổ chức triển lãm một loạt tranh 10 bức mới sáng tác tại Mỹ của họa sĩ Trịnh Cung từ Việt Nam sang, có tên gọi là Âm vang của đất. Quỳnh Giao xem tranh và đã viết cho báo Thế Kỷ 21 bài nhận định hội họa có tựa đề: Xem tranh Trịnh Cung: Chuyển Động và Âm Thanh. Chúng tôi mời quý vị nghe lại vài đoạn ngắn của bài này.

“Nếu các lục địa xô đẩy nhau, như vào thuở tạo thiên lập địa, ta có thể thấy sự vỡ nát của đá và có khi sự tuôn trào của nham thạch đỏ ối như vàng, hay nâu xậm tựa bùn đất. Nếu hoàn cảnh xô đẩy khiến một nghệ sĩ hội họa từ Việt Nam được lãng du trên lục địa Hoa Kỳ, để ngắm nhìn người và đất, ta có thể có mười họa phẩm hoàn tất trong thời gian ngắn - vài giây động đất của thiên nhiên vĩnh cửu. Nhưng, người đó phải có sức sáng tác của một họa sĩ trẻ và nghệ thuật già dặn của người đã sống để vẽ từ thời thái cổ. Trịnh Cung là người đó, và nơi ông, âm vang của đất đã thành bản hợp xướng hoành tráng của màu sắc và ánh sáng.”
...
“Ánh sáng trong tranh Trịnh Cung - tỏa ra từ cả những mảng đậm tím hay nâu cam - là ngôn ngữ của âm nhạc trong giai điệu majeur, êm và sáng, dịu mà không buồn. Âm vang của đất, nơi Trịnh Cung, là một bài hợp xướng vui tươi, không ủ dột như nhiều ca khúc của ta (...) Tôi sở dĩ nghĩ tới âm thanh của màu sắc vì trước mỗi bức tranh lại rung động như nghe được một giai điệu âm nhạc. Âm nhạc đã dẫn tôi vào hội họa Trịnh Cung vì ông thường kết hợp màu sắc để đưa người xem vào nhạc.”

Đọc Quỳnh Giao viết về hội họa, tôi mới ngộ ra rằng tất cả các hình thái nghệ thuật của con người đều liên quan với nhau. Người xưa nói “thi trung hữu họa” - trong thơ có họa - nay tôi vừa được biết thêm “họa trung hữu nhạc” - trong họa có nhạc, hoặc nói ngược lại, trong nhạc có họa, thì chắc cũng không sai. Trong cái này có cái kia, vì mỗi hình thái nghệ thuật của con người đều chỉ là một cách biểu hiện cái Đẹp mà con người mang trong tâm hồn nó.

Quỳnh Giao là người hiểu tất cả những điều đó, chị đúng là một con người tài hoa. Cụ Nguyễn Du đã nói rằng “những đấng tài hoa (thì) thác là thể phách, còn là tinh anh”.

Thưa chị Quỳnh Giao, hôm nay chúng tôi tiễn đưa thể phách của chị trở thành tro bụi, nhưng phần tinh anh, tức là tài sản tinh thần mà chị để lại thì thật phong phú, sẽ còn lại mãi mãi với chúng tôi hôm nay và cho nhiều thế hệ về sau.

Xin giã từ chị Quỳnh Giao.

Cuối tháng Bảy 2014.






Wednesday, July 23, 2014

TẠP GHI CỦA QUỲNH GIAO

Để tưởng nhớ ca sĩ Quỳnh Giao vừa qua đời lúc 3 giờ sáng ngày 23 tháng 7, 2014 tại Nam California, xin đăng lại bài phát biểu của chúng tôi về cuốn Tạp Ghi của Quỳnh Giao, trong buổi ra mắt sách vào tháng 10, 2011 tại nhật báo Người Việt.
Phạm Xuân Đài



Khi chúng ta đọc một tác giả viết bài trên báo, mỗi tuần một bài chẳng hạn, thì cảm nhận của chúng ta về từng bài báo đó khác hẳn khi tất cả các bài được gom lại và in thành một cuốn sách. Nếu mỗi bài trên báo coi như một chiếc đũa, đến khi được chọn lựa để tất cả nằm trong một cuốn sách thì đó là một bó đũa, và lúc bấy giờ chúng sẽ gây một sức mạnh áp đảo người đọc, và thái độ khi đọc của chúng ta phải đổi khác.

Cuốn Tạp Ghi của Quỳnh Giao quả có gây cho tôi cái cảm giác “khớp” ấy. Khi đọc thì vẫn là đọc từng bài ngắn với cách viết mà tác giả gọi là tạp ghi, nhưng tôi vẫn không khỏi có cảm giác là mình đang nắm trong tay một tổng thể rất hùng mạnh. Đây là cuốn sách viết về âm nhạc. Nó mang một giá trị rõ rệt về tài liệu và cả về văn học.

Càng ngày âm nhạc càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống của chúng ta. Có thể nói ai trong chúng ta cũng nghe nhạc cả, thế giới âm nhạc hiện nay thật phong phú và mênh mông, nhất là với phương tiện nghe nhìn càng ngày càng tân tiến và phổ cập. Dịch vụ sản xuất ra âm nhạc biến thành một kỹ nghệ lớn, cả xã hội là kẻ thụ hưởng sản phẩm của họ. Riêng người Việt Nam thì cả trong nước và ngoài nước hầu như không thể sống mà thiếu âm nhạc. Thế nhưng đại đa số chúng ta chỉ nghe nhạc với đôi tai, nặng về cảm tính, chúng ta thích thú vì nghe nó “hay”, thế là đủ. Thì cũng đúng thôi, âm nhạc vẫn được hiểu là một bộ môn để giải trí, nó làm cho tâm hồn chúng ta thư giãn hoặc rung động nhẹ nhàng khi nghe được những âm thanh đẹp để diễn tả những nét tình cảm nào đó. Nhưng hình như chúng ta quên một điều: nếu ta hiểu sâu hơn, có kiến thức nhiều hơn về cái mà ta đang thưởng thức thì sự cảm nhận sẽ phong phú, đẹp đẽ hơn nhiều. Nhớ ngày xưa trước 1975 nhiều thính giả của đài phát thanh Sài Gòn mê chương trình Nhạc Chủ Đề của Nguyễn Đình Toàn thì không chỉ đơn giản vì chương trình đó chọn lọc nhiều nhạc hay, mà chủ yếu là nhờ người dẫn chương trình hay. Và dẫn chương trình đây là gì? Là giảng giải về bản nhạc, để người thính giả hiểu rõ hơn về tính chất của âm nhạc và giọng hát sắp nghe, và khi hiểu rõ hơn thì sự thưởng thức sẽ thấm thía gấp bội. Sự hiểu biết nó quan trọng đối với thưởng ngoạn là như vậy. Quay lại đời sống trong cái xã hội nho nhỏ là người Việt tị nạn hiện nay, rõ ràng chúng ta rất thiếu thốn nguồn cung cấp kiến thức tin cậy được, trong khi nguồn cung cấp âm nhạc thì ngày càng nhiều, có thể nói là quá nhiều.

Giữa tình hình như vậy, tôi nhìn cuốn Tạp Ghi của Quỳnh Giao như một đáp ứng cần thiết cho sự thiếu thốn của chúng ta. Dĩ nhiên đó không thể là một đáp ứng toàn diện và đầy đủ cho những gì chúng ta cần – trong cái mênh mông của thế giới âm nhạc hiện nay, chẳng có thiên tài nào có thể bao biện hết mọi chuyện được – nhưng tôi có thể nói mà không sợ sai lầm, là cuốn sách này sẽ giúp chúng ta biết được một phần đáng kể về vốn liếng của nền tân nhạc Việt Nam và một số khuôn mặt lừng lẫy của âm nhạc thế giới. Trong bài nói chuyện này, vì thì giờ có hạn, chúng tôi sẽ chỉ đề cập đến phần nhạc Việt Nam của cuốn sách, mặc dù phần viết về những danh tài nhạc thế giới rất phong phú, cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin đặc biệt về các tài năng và biến cố âm nhạc quan trọng quốc tế.

Tác giả Quỳnh Giao đã được nuôi dưỡng trong giai đoạn trưởng thành của nền tân nhạc Việt Nam, đã được học hành đến nơi đến chốn trong trường Quốc Gia Âm Nhạc của Việt Nam Cộng Hòa, đã đậu thủ khoa khi ra trường, đã sống trọn vẹn trong môi trường âm nhạc từ trong gia đình ra ngoài xã hội, từ nhỏ đến lớn, từ trong nước ra hải ngoại. Cộng thêm khả năng dồi dào về văn học, có thể nói cho tới giờ phút này, ít có ai có được những thuận lợi để viết về âm nhạc Việt Nam trong thời kỳ của mình hơn là Quỳnh Giao. Nhưng tác giả không viết những đại luận hay những tiểu luận về âm nhạc, mà chỉ chọn thể loại tạp ghi, là một thể loại tương đối tự do, và tôi cho chính đây là lựa chọn rất đúng, tạo nên thế mạnh của cây bút này. Là con của ca sĩ lừng lẫy Minh Trang, lớn lên trong gia đình của đôi nghệ sĩ nổi tiếng Dương Thiệu Tước-Minh Trang, lại tham gia vào thế giới âm nhạc từ thủa bé, Quỳnh Giao đã tích lũy không biết bao nhiêu là kỷ niệm, bao nhiêu là quen biết và bao nhiêu là kiến thức về các nhạc sĩ, các ca sĩ, về các tác phẩm và các sinh hoạt âm nhạc đủ loại của suốt thời gian sống còn của miền Nam. Đọc các ghi nhận về từng người nhạc sĩ, từng ca sĩ, từng bài hát của cả một nền âm thanh của Việt Nam Cộng Hòa, người ta mới thấy tác giả đúng là một cuốn tự điển sống về cái thế giới ấy, một cây bút đầy thẩm quyền không chỉ vì sự hiểu sâu biết kỹ, mà còn vì khả năng diễn đạt bằng văn chương những chỗ uẩn áo của âm nhạc phát tiết ra nơi từng người nghệ sĩ, dù là người sáng tác, người trình diễn hay có khi chỉ là người viết hòa âm. Với những tích lũy nặng về tình cảm từ chỗ quen biết trong cuộc sống chứ không phải với cung cách học giả về âm nhạc, cách viết theo lối tạp ghi, tức là biết gì nói nấy, cảm thế nào trình bày ra như thế theo ký ức của mình, tôi cho là thích hợp nhất, vì nó thân mật, linh động và thành thật. Những đặc tính ấy khiến người đọc bình thường thích thú và lãnh hội được nhiều hiểu biết hơn là những biên khảo khô khan.
Nhưng những gì Quỳnh Giao đã tích lũy được không chỉ là kỷ niệm, mà còn là kiến thức và văn tài. Không hiểu và cảm thấu đáo, không mang cái tài hoa của một tâm hồn thông suốt các âm điệu cổ kim, thì làm sao có thể viết những dòng thế này về Văn Cao:

Buồn Tàn Thu được yêu thích từ khi xuất hiện nhờ lời ca thần diệu đã kết hợp hai cảm xúc lay động hồn người khi đó, là tâm tư lãng mạn với điều mới mẻ và lòng hoài niệm nét cổ phong của một thời đang mất.” Hoặc:

“Bến Xuân là bản tình ca đẹp nhất, ấm áp chứ không buốt lạnh nỗi đau như các tình khúc khác của Văn Cao. Lời tiếc nuối e ấp bay lượn trên nét nhạc u hoài trang nhã và tứ thơ lung linh màu sắc như một bức họa ấn tượng khiến Bến Xuân là nơi hội ngộ kỳ diệu của thơ, họa và nhạc trong một khúc tình ca.”

Hoặc về Dương Thiệu Tước:
... ông sáng tác với nét cao nhã của âm điệu Tây phương mà uẩn súc trong nỗi rung động Đông phương. Đằm thắm mà không suồng sã, và dù kén người hát lẫn người nghe, nhạc tình của Dương Thiệu Tước sẽ tồn tại mãi với thời gian, vì càng nghe ta càng yêu quý.”

Trong việc thưởng thức nghệ thuật có những điều chúng ta cảm nhận một cách mơ hồ, ta biết là nó có đấy, nhưng không xác định rõ được là cái gì, thì nay Quỳnh Giao sẽ giúp chúng ta được sáng tỏ hơn. Tiếng hát Thái Thanh chẳng hạn. Nhiều người say mê tiếng hát ấy. Mai Thảo gọi đó là  “tiếng hát vượt thời gian”, Thụy Khuê thì gọi là “tiếng hát lên trời”. Quỳnh Giao cũng bị tiếng hát ấy mê hoặc như bao người khác, đã cho rằng “trong nửa sau của thế kỷ 20, tiếng hát Thái Thanh đã là di sản không thể mất của rất nhiều người Việt”. Nhưng Quỳnh Giao còn nhìn ra một tính chất ít ai nhận thấy trong tiếng hát ấy khi nhắc lại một nhận xét của Duy Cường: “Giọng của dì Thanh thuộc xu hướng xã hội. Hát cho người, không hát về mình. Giọng hát chứa nhiều kịch tính, nhất là bi kịch.” Tôi cho đây là một phát giác lớn về giọng hát bất hủ của Thái Thanh: khi hát về tình yêu, Thái Thanh hát cho tất cả các đôi lứa, hát về khổ đau là cho tất cả nỗi đau của nhân thế –chứ không phải cho chính mình. Đó là tiếng hát vượt lên cao, bao trùm ôm ấp cõi nhân gian. Nhưng riêng Quỳnh Giao lại có một phát giác riêng nữa về Thái Thanh khi viết: “Chỉ khi hát những bài bát ngát tình mẹ, Thái Thanh mới thực sự hát cho chính mình và cho đời sau.” Trước một tài năng nghệ thuật vượt bực, hầu hết chúng ta đều say sưa thưởng thức mà không mấy khi giải thích được cái hay cái đẹp đó là gì, ở chỗ nào. Cho đến khi chúng ta gặp một tài năng khác dùng cây đũa thần của ngôn từ mở cho chúng ta một cánh cửa mới thì chúng ta cảm thấy tràn đầy hạnh phúc được bước vào một thế giới mới mẻ mà lâu nay do vô minh, chúng ta chưa được khai thị.

Về một nhạc phẩm đã xưa của Lê Thương, truyện ca Hoa Thủy Tiên, tác giả đã vẽ nên một cái nhìn về màu sắc triết lý khác biệt quanh các sự tích về hoa thủy tiên của phương Tây và phương Đông, chỉ ra tính cách rất cá nhân của chàng Narciss của thần thoại Hy Lạp, rất khác với tâm hồn hòa hợp với vạn vật của Đông phương mà Lê Thương đã kể lể một cách duyên dáng trong bài hát. Chính sự thông hiểu văn hóa đông tây như thế đã soi sáng một câu chuyện truyền kỳ của chúng ta, giúp chúng ta hiểu rõ hơn các nghệ phẩm của Việt Nam và ý thức rõ hơn về chính mình.

Cứ như thế, tác giả khắc họa từng nhân vật âm nhạc của chúng ta với những nhận xét tinh tế thông minh và vận dụng chữ nghĩa chính xác và lắm khi rất tài hoa. Dĩ nhiên, như tôi đã trình bày ở trên, Quỳnh Giao có lợi thế rất lớn, đó là chính mình là người của âm nhạc, đã vừa sẵn chuyên môn lẫn tâm hồn mẫn cảm với âm thanh, nên có sự thuận lợi trong các phát biểu và nhận xét. Nhưng chừng đó lợi thế vẫn chưa đủ để biến thế giới âm thanh quen thuộc ấy thành một cuốn sách, nghĩa là tác giả còn phải có tài viết lách nữa. Chúng ta nào có ai đã nghe Thúy Kiều đàn, nhưng nhờ Nguyễn Du mô tả

Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa

thì ta cũng mường tượng được cái hay của tiếng đàn đó. Thực ra, chúng ta thưởng thức tài nghệ viết văn của Nguyễn Du chứ đâu phải thưởng thức âm nhạc của Thúy Kiều, nhưng vì Tố Như viết khéo quá nên vẫn tưởng như đã nghe đàn. Ở đây cũng vậy, tài nghệ của biết bao nghệ sĩ Việt Nam và thế giới đã được Quỳnh Giao giới thiệu với một bút pháp trong sáng và điêu luyện, nhờ đó chúng ta hiểu thế giới của nghệ thuật âm nhạc hơn. Thật ra không có gì diễn tả nghệ thuật hữu hiệu cho bằng chính nghệ thuật. Đây là một cuốn sách “điểm danh” nghệ sĩ và tác phẩm của họ bằng một nghệ thuật khác. Kho kiến thức nào rồi cũng có nguy cơ sẽ biến thành một mớ tài liệu khô cứng, nhưng với Quỳnh Giao thì nhờ sự cảm nhận tinh tế và đồng cảm của tâm hồn nghệ sĩ, cộng với cách diễn đạt đầy nghệ thuật của một cây bút văn học vững vàng, Quỳnh Giao đã làm nên giá trị của cuốn sách này.

Xin cám ơn tác giả Quỳnh Giao và cám ơn quý vị đã lắng nghe.







Tuesday, July 22, 2014

Năm 1954, tại HỘI AN

Blog này
Được Liên kết Từ đây
Tâm hồn tôi ngay từ khi còn bé đã được xây dựng với rất nhiều hình ảnh của đất Bắc, đặc biệt là Hà Nội, qua các sách tôi đọc. Sách Hồng, sách Truyền Bá Quốc Ngữ từ lúc vừa biết đọc, lớn lên một chút, tôi tiếp tục đọc sách Tự Lực Văn Đoàn và các tác giả khác: Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Lê Văn Trương, Vũ Trọng Phụng, Tô Hoài v.v... và tiếp nhận thông tin đủ mọi mặt của đời sống đất Bắc qua văn chương. 

Monday, July 14, 2014

HOA TÍM BÂNG KHUÂNG


Đầu tháng Năm vùng quận Cam bỗng thiên nhiên có điều kỳ diệu, các cây Jacaranda nở hoa tím. Không phải các loại muôn hồng nghìn tía lè tè dưới mặt đất nở rộ trong mùa xuân đâu, đây là các cây lớn thân mộc trồng ven đường, qua mùa đông dài trụi lá trơ cành chẳng ai để ý đến, bỗng một hôm ra toàn hoa tím, tạo thành cả một khối tím bồng bềnh tưởng như đấy là đám mây ửng một trong bảy sắc cầu vồng trên trời bay lạc xuống đậu vào cây. Một niềm hạnh phúc bất chợt sẽ đến với bạn khi bạn lái xe rẽ vào một con đường nhỏ êm đềm với những rặng hoa tím, tím ngát đất trời. Ngửng mặt nhìn vào đám mây tím lãng đãng ấy bạn sẽ lạc ngay vào một vùng tâm thức lạ lùng, vừa sửng sốt vừa phiêu diêu. Đó là một loại màu tím không giống bất cứ thứ tím nào bạn đã thấy. Màu hoa sim tím hồng, màu hoa cà tím xanh, màu tím than, tím Huế của áo lụa ôm ấp vóc dáng mảnh mai của những đóa hoa xứ Huế, hoa súng màu tím thanh nhã và đơn sơ, những đám lục bình bồng bềnh với những cánh hoa mỏng tím biêng biếc... tất cả đều là những thứ phải nhìn gần, tím trong một mảng cụ thể với một sắc độ phân minh được định nghĩa rõ ràng trong cảm nhận của bạn. Đến như cái tím của hoa sim trên một trảng sim rộng lớn đến độ “tím cả chiều hoang biền biệt” thì cũng dựa vào một không gian trải rộng với một chiều cao vừa ngang ngực, những cụm màu tím hồng chen với lá xanh nhân lên mãi kéo dài đến hút mắt cũng tạo nên một cảm giác và tâm tình khác. Cảm giác buồn buồn và bất lực đau khổ vì cái mênh mông, cứ tím mãi mãi thế này sao?

Màu tím của Jacaranda (mà một người yêu hoa ở đây gọi là phượng tím) mang vẻ thanh thoát của thượng giới, từ trời xuống chứ không phải từ mặt đất nhiều khổ ải này mà mọc lên. Các mảnh tím từ mặt đất dù đem lại cho người đời các cảm xúc khác nhau thế nào, chính chúng đã như một lời than thở, hay ít ra, một nỗi thắc mắc, một dấu hỏi trong lòng cõi nhân sinh. Ôi màu tím, như là cái đuôi của một tiếng thở dài... Nhưng cái khối màu tím ở trên trời tự chúng đã vẽ ra một cảnh giới khác. Người ta không ghé mắt xem từng cánh hoa đẹp xấu như thế nào vì nó ở tít trên cao, không tẩn mẩn phân tích sắc độ tím của cánh hoa ấy đậm nhạt thế nào, người ta chỉ có thể đối diện với nó như là một tổng thể không định nghĩa được. Như tình yêu vậy. Bao trùm, che lấp mọi ngõ ngách của cảm quan, bâng khuâng phiêu bồng trong một khối dìu dặt.

Đấy là những cái tán tròn màu tím sáng, tạo thành một vùng treo lơ lửng ở trên cao, có khi rất cao ở những cây lâu năm. Nó ra khỏi các hệ lụy trần thế của bao loại hoa cỏ bình thường như là phải tưới nước, bón phân, chăm sóc... giống như tình yêu đã được thánh hóa trong Tạ Từ của Tô Vũ:

Tình anh như thông đầu non
Vời cao trong mây buồn đứng
Muôn kiếp cô liêu
Ngàn năm còn reo

Buồn đứng trong mây, gần với cái tịch mịch, xa sự khổ lụy đời thường, xa cả cái hạnh phúc được tưới tắm chăm sóc trìu mến của một bàn tay thương yêu nào đấy.

Nhưng các đám mây tím ấy mang một vẻ đẹp kỳ lạ. Cao mà không ngạo, tím mà thanh thoát, như một lời hẹn hò mà không mong sự tương phùng. Nó là một nỗi bâng khuâng. Nó đưa người ta trong một chốc lát vào một tâm cảnh huyền hoặc tựa hồ trong dáng vẻ và màu sắc ấy có chất ma túy nhẹ và loãng nhưng đủ gây một ma lực khiến bâng khuâng, tưởng như trong ấy cảnh và người của một kiếp xa xôi nào đấy, nhưng lâng lâng niềm vui chờ mong của một cuộc hẹn hò mãi mãi.

Một vùng hoa tím lơ lửng giữa trời là một cảnh tượng không phải ai cũng có duyên được thấy trong đời của mình. Nó hiện ra huyền diệu như một phép lạ tôn giáo, thường đem đến một cảm giác thanh cao. Nếu bạn rời cái phương tiện máy móc là chiếc xe của bạn đi, đứng trên mặt đất và nhẹ nhàng tản bộ dưới tàn cây đó, bạn sẽ thấy hạnh phúc của bạn gia tăng gấp đôi. Đám mây tím ấy sẽ không quá thân mật gần gũi với bạn nhưng cũng không kiêu kỳ xa cách, vẻ đẹp ấy tươi cười và độ lượng, như đã biết rõ những gì mình đem lại cho người đời và những buồn phiền nào con người vẫn mắc phải. Hình như nó thầm thì với bạn rằng: “À cuộc đời...! Một màu tím đến rồi đi, chẳng giải oan được cho cuộc đời nhưng cũng mở một nẻo đi về cho tâm thức. Các người có nhận ra điều ấy không?”

Người ta dễ đồng ý với nhau rằng không nên coi màu tìm ấy là hoa như quan niệm thông thường về hoa. Hoa ấy vô hình dáng. Hoa ấy là một khối tổng hợp màu. Một đám mây, một nét tinh thần bay lơ lửng. Không bao giờ có sự rạch ròi, như một đóa hoa nằm ngay trước mặt ta với hình dáng cụ thể, cánh thế nào, nhụy ra sao, mùi thơm, màu sắc đều đâu vào đấy. Nhưng đừng hỏi sự rạch ròi của một đám mây phiêu bồng, nhất là khi tên gọi của nó là bâng khuâng. Cứ hãy để nó là thế, đừng đem các kiến thức về hoa cỏ của đời thường áp đặt lên nó, không nên đâu, nếu biết nó sẽ khổ sở đấy. Nó là thứ giữa trời mà. “Vời cao trong mây buồn đứng.” Bạn đồng ý  thế nhé.

Nếu đồng ý bạn sẽ thưởng thức nó trọn vẹn, tâm hồn bạn lạc hẳn vào một nỗi bâng khuâng. Bạn sẽ thấy gì trong đó? Bạn sẽ gặp lại mình, sẽ thấy ánh tím ấy phản chiếu vào hồn bạn một mảnh đời xưa cũ, một tình yêu đã qua, một thứ phảng phất nhẹ nhàng và đằm thắm, và bạn bỗng thấy hạnh phúc ở đời thật ra nó cũng đơn sơ lắm... Một thoáng hương xưa. Đôi khi nếu lòng bạn đang chất chứa một nỗi oan khiên, biển hoa màu tím ấy có thể sẽ giải oan cho bạn, vì cả một khối lâng lâng ngây ngất độ lượng ấy sẽ làm loãng mọi khổ đau, sẽ vỗ về và mở nẻo cho cõi lòng bạn đang bế tắc.

Hoa Jacaranda làmột hiện tượng lớn lao mà thiên nhiên đem lại cho lòng người. Đối diện với nó ta không thể dửng dưng. Kiếp sống của nó chỉ có một mùa, mùa xuân, kiếp sau của nó là mùa xuân tới, nó hẹn hò với bạn như thế. Mỗi khi đám mây tím ấy đáp xuống cõi trần, bạn sẽ được sống với những giây phút bâng khuâng với những thoáng hương xưa thân yêu nhất, sẽ nhìn lại cái thật của đời mình, và biết rằng, ôi, hạnh phúc quả thật cũng rất đơn sơ...

Buổi sáng thứ bảy 15-5-1993