(Đã
được tác giả đọc trong đêm nhạc “Dương Thiệu Tước ‘Tiếng Xưa’ của chúng ta” tổ
chức tại Rose Center Theater (Westminster, Nam California) ngày 12 tháng Bảy,
2008.)
Thông thường, quá khứ của một dân tộc được ghi lại bằng
những trang sử của dân tộc ấy. Nhưng có một điều chắc chắn là những trang sử
không thể nào là đại diện đầy đủ quá khứ của một dân tộc, vì quá khứ ấy không
phải chỉ gồm những triều đại, những trận đánh và những biến động lớn lao. Quá
khứ của một dân tộc một phần rất lớn nằm trong ký ức tình cảm của tập thể hay
của cá nhân, rất tinh tế, không cụ thể, nhưng luôn luôn có mặt và chi phối cuộc
sống của chúng ta. Có những tình cảm lưu truyền từ đời này qua đời kia, mỗi
chúng ta đều mang chúng trong lòng. Niềm vui đầy cảm khái của thời khắc giao
thừa đón năm mới, hay nỗi buồn khi đối diện với cảnh “tiết tháng bảy mưa dầm
sùi sụt” chẳng hạn, là những tình cảm gần như phổ quát cho mỗi con người Việt
Nam từ thời xa xưa cho đến bây giờ.
Nghệ sĩ là người có khả năng cảm nhận một cách nhạy bén
những vốn liếng tình cảm truyền lại từ quá khứ ấy, và diễn đạt bằng nhiều hình
thức khác nhau, giúp chúng ta qua tác phẩm của họ nhận biết những điều, hình
như vẫn có sẵn nơi mình, nhưng tự mình thì không sống trọn vẹn được với chúng
bằng khi thưởng thức những gì người nghệ sĩ sáng tác.
Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước là người có biệt tài, mà tôi cho là
cao nhất, qua tác phẩm âm nhạc của mình, khơi dậy cái gia tài quá khứ tiềm ẩn
ấy. Một nhạc phẩm của ông có tên là Tiếng Xưa, và chúng tôi thấy cái tên ấy có
thể đại diện cho tâm hồn và sự rung cảm của ông đối với những tâm tình của quá
khứ, nên đã mạn phép dùng Tiếng Xưa như là tên gọi chung cho bao nỗi hoài cảm
sâu xa, rộng lớn, man mác mà ông đã truyền vào tâm hồn chúng ta qua các tác
phẩm của ông.
Dương Thiệu Tước là một tài năng âm nhạc lớn của Việt Nam.
Nhưng điều lớn lao nhất nơi ông, theo tôi, là đã truyền cho chúng ta cả một
mảng tình cảm vẫn tiềm tàng trong tâm thức Việt Nam trải nhiều thế hệ. Những
đặc trưng ấy, người ta thường gọi là tính cách “cổ điển” của một dân tộc, thỉnh
thoảng được tài năng của một thế hệ nào đấy cảm nhận được và diễn đạt bằng
nhạc, bằng họa, bằng thơ, văn khiến chúng ta bàng hoàng vì như thể chúng ta gặp
lại chính mình, hoặc tổ tiên mình. Chúng tôi nhận thấy những tác phẩm thành
công nhất của Dương Thiệu Tước đều đem đến, hay nói cách khác, đều khơi dậy
được những nỗi niềm xưa cũ trong tâm hồn chúng ta, như là những châu báu lâu
nay vẫn chìm khuất đâu đó nay được khai quật lên vậy.
Hãy nói về bản Tiếng Xưa. Đó là cảm nhận của một nỗi buồn,
nhân đối diện với thời khắc hoàng hôn của một buổi chiều thu. Kể ra trong chúng
ta ai ở trong cảnh “hoàng hôn lá reo bên thềm,” và “hoàng hôn tơi bời lá thu
sương mờ” thì cũng có thể cảm thấy một nỗi buồn man mác không cỗi rễ, không
biết tại sao lại buồn. Nhưng với nhạc sĩ thì khác, ông chỉ nói qua khung cảnh
mà mình đang đối diện trong một câu ngắn ngủi, để làm cái nền cho dòng tình cảm
tuông trào. Bao nhiêu là cảnh là tình của thời xưa trôi về, nào là “ánh trăng
xưa” khiến mơ đến khúc Nghê Thường, nào là “thời liệt oanh” của một thời nào
nay đã mất. Chúng ta hoàn toàn không biết ánh trăng xưa đó là trong hoàn cảnh
nào, thời liệt oanh đó là của ai và tại sao mà nhớ tiếc, những điều đó hầu như
chẳng cần thiết, chỉ biết tâm hồn của ta bỗng dưng đồng cảm trọn vẹn với tác
giả. Chỉ cần gợi các yếu tố đó lên là hầu như ai cũng thấy mình có phần trong
đó, dù mình có trong ký ức một đêm trăng nào đặc biệt hay không, và có thể suốt
đời mình chẳng bao giờ có một thời liệt oanh nào. Không cần, những hình ảnh ấy
chỉ là những biểu tượng, đã nằm trong một cái kho chung của một nền văn hóa,
chỉ cần nói đến, dĩ nhiên một cách nghệ thuật, là đã có thể “khơi mạch sầu” một
cách bí ẩn nơi thâm tâm chúng ta. Cũng vậy, lòng tiếc nuối sao có tài mà lỡ
làng lận đận, và một mỹ nhân có tóc mây vương, có dáng liễu mơ màng giữa một
làn khói hương bay dịu dàng cũng chỉ là những tượng trưng rất điển hình của một
câu chuyện nào đó của thời xưa. Tất cả có thể là tâm sự rất riêng của một ai
đó, đồng thời cũng có thể rất chung đến nỗi thành như một loại điển tích, nhưng
đều có khả năng đánh động lòng ta. Lý do là vì chúng ta đã cùng tham gia vào
cái vốn liếng văn hóa của ông cha để lại, trong đó có chứa đựng tất cả, nào
chiều thu, nào nỗi nhớ tiếc một thời liệt oanh, nào nỗi bi phẫn có tài mà sao
cứ lỡ làng, nào ánh trăng, nào làn tóc…, chúng ta có sẵn bao nhiêu thứ, nay chỉ
nhờ nhạc sĩ mang ra mời chúng ta cùng thưởng thức và cùng ngậm ngùi cho các nỗi
niềm tuy của một thời nhưng lại đã trở thành bất biến với thời gian.
Bài Thuyền Mơ chỉ là một bài tả cảnh sông nước của một vùng
nhưng đối với tôi là một hình ảnh điển hình vô cùng xuất sắc, vô cùng sâu đậm
của quê hương Việt Nam, dĩ nhiên là quê hương của một thời thanh bình đã xa, và
cũng ghi dấu như một cái gì biểu trưng bất biến. Hãy đi theo con thuyền mơ:
Thuyền
mơ trên dòng sông vắng
Buồm
in bóng trên ngàn dâu xanh
Núi
lam khuất sau ngàn cây
Như
bức tranh chiều nắng tơ xây mộng vàng.
Làng
ai bên dòng sông vắng
Kề
bên núi lam miền Trường Sơn
Nhà
ai khói tỏa mây mờ dâng niềm thương nhớ
Chìm
theo mây nước bao ước mơ.
Qua bức tranh này ta có thể có ý niệm về mấy chữ “non sông
gấm vóc,” vì bức tranh ấy đẹp như gấm như vóc. Nếu bài thơ Tràng Giang của Huy
Cận tả một nỗi sầu rộng lớn bằng bức tranh sông nước ở vùng đồng bằng thì con
Thuyền Mơ đang lênh đênh trong khung cảnh của vùng cận sơn, có lẽ là ở vùng bắc
Trung phần. Trước cảnh “sông dài trời rộng” trong ánh sáng nhạt nhòa của buổi
chiều đang đi vào hoàng hôn, Huy Cận chỉ nghe mơ hồ “đâu tiếng làng xa vãn chợ
chiều” thì Dương Thiệu Tước nhìn thấy một phong cảnh nhiều màu sắc, có con buồm
trắng in bóng trên ngàn dâu xanh, có núi lam khuất sau ngàn cây trong buổi
chiều nắng tơ xây mộng vàng, và cụ thể hơn, tác giả còn thấy một ngôi làng xa
xa bên chân núi, và ống kính còn kéo vào cận cảnh một ngôi nhà giữa khói tỏa
mây mờ. Nhưng có một điểm chung của hai tác giả là thuyền, sông nước, và buổi
chiều đều mang một nỗi buồn mang mang rộng lớn như đó chính là linh hồn sẵn có
tự bao giờ của nước non, mà mỗi tác giả diễn đạt ra một cách. Với Thuyền Mơ
trôi trên con sông vùng kề cận dãy Trường Sơn, chúng ta lại chạm được vào một
kho báu tiềm tàng của tâm hồn Việt Nam. Người nghệ sĩ lớn đã cảm hộ cho chúng
ta, nói hộ cho chúng ta những gì tàng chứa trong cảnh trí non sông và lòng
người, không biết từ đời kiếp nào.
Có lẽ nỗi buồn không phải là mục tiêu sáng tác của Dương
Thiệu Tước. Nó chỉ là kết quả. Ông chỉ nắm bắt những cảnh trí, và từ cảnh sinh
tình, ông bộc lộ ra những tâm tình bất biến của truyền thống tình cảm Việt Nam.
Áng Mây Chiều là một khơi nguồn ký ức của một cuộc chia xa trong thời chinh
chiến của một kẻ “ra đi khắp bốn phương, nơi biên cương chốn sa trường” với một
hình bóng “trong sương thu bóng ai ngồi nhớ nhung hoài tình xưa.” Đó có thể là
một tâm sự riêng của một người vào một thời nhất định, nhưng cũng có thể là một
điển hình của lịch sử chinh chiến xưa nay.
Mời nghe Áng Mây Chiều qua giọng hát Quỳnh Giao https://www.youtube.com/watch?v=QKcIyQ82YVs
Mời nghe Áng Mây Chiều qua giọng hát Quỳnh Giao https://www.youtube.com/watch?v=QKcIyQ82YVs
Nhưng Bóng Chiều Xưa mới là một bản tình ca tuyệt vời, nói
về một mối tình say đắm nay không còn nữa.
Thuần túy là tình yêu, nhưng cũng mang đặc điểm chung là mối tình say đắm đó đã tan rồi, chỉ còn lại nhớ tiếc. Nếu nó còn, và vẫn tiếp tục cường độ đắm say hạnh phúc như từ đầu thì tác giả chắc không mất công sáng tác bản nhạc làm gì. Sáng tác vì mối tình chỉ còn tồn tại cùng với một bóng chiều xưa, nghĩa là chỉ tồn tại trong ký ức. Khi một trong hai người đã từng yêu nhau về thăm nơi cũ đã từng chứng kiến tình yêu của họ
Thuần túy là tình yêu, nhưng cũng mang đặc điểm chung là mối tình say đắm đó đã tan rồi, chỉ còn lại nhớ tiếc. Nếu nó còn, và vẫn tiếp tục cường độ đắm say hạnh phúc như từ đầu thì tác giả chắc không mất công sáng tác bản nhạc làm gì. Sáng tác vì mối tình chỉ còn tồn tại cùng với một bóng chiều xưa, nghĩa là chỉ tồn tại trong ký ức. Khi một trong hai người đã từng yêu nhau về thăm nơi cũ đã từng chứng kiến tình yêu của họ
Một
chiều gió mưa
Thì chỉ đối diện với
Non
nước u buồn
Nào
đâu bóng cố nhân
Lòng
xót xa tình xưa.
Mời nghe Bóng Chiều Xưa qua giọng hát Họa Mi https://www.youtube.com/watch?v=elDsbvRsIbk
Trong sáng tác của Dương Thiệu Tước chúng ta luôn luôn gặp
nỗi tiếc nhớ những gì đã qua. Rõ ràng tác giả có tấm lòng hoài cựu rất mạnh.
Trong văn học Việt Nam chúng ta có một tác phẩm ưu tú chỉ viết về quá khứ, đó
là cuốn Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân.
Tác giả đứng trước luồng sóng Âu
hóa đang tràn vào xã hội Việt Nam vào những thập niên đầu của thế kỷ 20, đã
vội ghi lại các hình ảnh đại diện cho
sinh hoạt và tâm tư Việt Nam một thời trước đó, trước khi chúng bị xóa nhòa vì
làn sóng không cưỡng lại được của một nền văn minh mới mẻ. Tôi có cảm tưởng
Dương Thiệu Tước cũng làm công việc tương tự, trong lãnh vực âm nhạc, khi cố
tình làm sống lại những gì đang mất trong một hoài niệm miên man. Người nghệ sĩ
lớn có mối tiên cảm trước mọi người về một mối de dọa nào đấy đối với đời sống
của dân tộc, nên ra sức lưu giữ những gì họ thấy có nguy cơ mai một đi. Nếu
Nguyễn Tuân rõ ràng thấy trước nền văn minh Tây phương rồi sẽ ảnh hưởng rất
nhiều lên nếp sống nếp nghĩ nếp cảm cố hữu của dân tộc mình nên thu thập và
viết lại những gì đã một thời chỉ còn vang bóng, thì Dương Thiệu Tước dường như
tiên liệu những tình cảm rất đẹp của nỗi u hoài rồi có ngày sẽ bị nạn lớn nên
từ năm 1940 đã viết Tiếng Xưa như một tuyên ngôn mở đầu, rồi liên tiếp trong
hơn một thập niên đã sáng tác Đêm Tàn Bến Ngự, Thuyền Mơ, Áng Mây Chiều, Bóng
Chiều Xưa, Ngọc Lan… như một cố gắng lưu giữ càng nhiều vẻ đẹp xưa càng tốt.
Tiên cảm ấy rất đúng. Khi hoạt động của đảng cộng sản lớn mạnh rồi đến chỗ cướp
được chính quyền, bao nhiêu vẻ đẹp của văn hóa Việt Nam đã bị tàn phá. Những
tình cảm sầu nhớ buồn bã bị lên án như là những thứ không được tồn tại trong
đời sống xã hội chủ nghĩa. Đó là một xã hội mà văn nghệ chỉ được nói đến niềm
vui mà không được nhắc đến nỗi buồn, phải luôn luôn thúc dục đánh nhau và sản
xuất chứ không được mơ mộng. Khi nền văn nghệ hiện thực ấy phải lùi bước trên
đất nước ta cách đây vài chục năm vì tính chất phi nhân bản của nó thì nhiều
văn nghệ sĩ mới sực nhớ, à thì ra con
người còn có nỗi buồn, niềm thao thức, tiếc nhớ. Những gì trước đây bị lên án
là ủy mị sướt mướt và cấm đoán thì chính là một phần của đời sống của con
người, không thiếu được, nếu không muốn biến thành con người tật nguyền.
Dĩ nhiên tình cảm Dương Thiệu Tước không phải chỉ là hoài
cảm. Những tác phẩm như Bến Xuân Xanh, Hội Hoa Đăng, Ngàn Thông Bên Suối v.v...
nắm bắt và thể hiện những niềm vui, vẻ đẹp của thiên nhiên và hội hè bằng những
nét nhạc trong sáng, hào hứng. Thế nhưng điều quan trọng Dương Thiệu Tước vẫn
là người đã lưu giữ những “tiếng xưa” lại cho chúng ta. Tình cảm của ông trang
nhã, ngôn từ của ông đẹp một cách cổ kính, và nhạc của ông cao sang. Sự nghiệp
sáng tác của ông là một di sản quý báu mà những thế hệ kế tiếp ông phải biết
nâng niu quý trọng. Di sản đó đã làm giàu có cho tâm hồn chúng ta, và do đó
cũng đóng góp rất nhiều cho nền văn hóa Việt Nam.
Tháng
Bảy, 2008