Friday, June 6, 2014

LỆ BA với Truyện Kiều qua các khúc ngâm Trung Nam Bắc


Vào năm 2001 giới yêu nhạc yêu thơ hải ngoại xôn xao vì một bộ CD rất công phu diễn ngâm Kiều, do nghệ sĩ Lệ Ba trình bày. Xôn xao vì đây là lần đầu tiên truyện Kiều được diễn ngâm ở một quy mô lớn với rất nhiều trích đoạn, bởi giọng ngâm rất hay, nhạc đệm tài tình, và nhất là người diễn đã trình bày Kiều qua nhiều điệu ca ngâm khác nhau của cả ba miền Bắc Trung Nam Việt Nam.

























 



Nghệ Sĩ Lệ Ba

Từ khi bộ CD  ra đời, nghệ sĩ Lệ Ba đã đi trình diễn nhiều nơi để giới thiệu tác phẩm. Ngoài  Toronto là thành phố nhà được Lệ Ba tổ chức buổi ra mắt đầu tiên, sau đó cô còn đi nhiều nơi như Dallas, Florida, Houston và một chuyến lưu diễn xa tận bên Úc. Mãi đến cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm 2002 này, người dân Quận Cam của miền Nam California mới được hân hạnh đón tiếp người nghệ sĩ tài hoa này trong các buổi trình diễn của cô tại Little Saigon. Cô sẽ chính thức trình bày chương trình “Truyện Kiều qua các khúc ngâm Trung Nam Bắc” trong hai buổi: vào lúc 2 giờ chiều ngày 30 tháng 11 tại Viện Việt Học, và buổi thứ nhì do Hội Văn Học Nghệ Thuật Việt Mỹ (VAALA) tổ chức tại Phòng Sinh Hoạt Nhật báo Người Việt vào lúc 2 giờ chiều ngày 01 tháng 12 năm 2002.














































 Lệ Ba đang diễn xuất ngâm Kiều tại Viện Việt Học

Nghệ sĩ Lệ Ba, tức Tôn Nữ Lệ Ba, hiện nay là một nha sĩ hành nghề tại thành phố Toronto, Canada. Lệ Ba người Huế nhưng sinh tại Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, học tiểu học rồi trung học Đồng Khánh tại Huế, từ năm 1964 đến 1969 học trung học Gia Long, Sài Gòn. Hết trung học cô vào trường Nha Y khoa Sài Gòn, và tốt nghiệp Nha sĩ vào năm 1974. Thời gian theo học ở Sài Gòn cô đã tham gia các sinh hoạt văn nghệ thanh niên sinh viên học sinh tại đây, từ năm 1967 đến 1972 cô là trưởng ban Kịch đoàn Văn Nghệ Tiên Rồng.

Lệ Ba cùng gia đình cùng gia đình vượt biển tìm tự do năm 1979 và được định cư tại Canada cùng năm. Tại đây cô vừa đi làm vừa học lại Nha khoa, cuối cùng tốt nghiệp và làm lại nghề cũ tại đất nước mới. Tuy cuộc sống dần dần được ổn định tại xứ người nhưng lúc nào cô cũng canh cánh bên lòng việc bảo tồn và xây dựng văn hóa Việt Nam, mới qua được ba năm cô đã thành lập nhóm dân ca Hồng Lạc tại Montreal. Năm 1990 thì đoàn Vũ Nhạc Hồng Lạc được thành lập tại Toronto do Lệ Ba làm Đoàn trưởng, mà đoàn viên gồm sinh viên, học sinh người Việt tại địa phương, đã xây dựng được nhiều tiết mục ca múa rất giá trị, ngày càng phong phú về số lượng lẫn phẩm chất, vừa giữ được cốt lõi nghệ thuật cổ truyền dân tộc vừa có những nét sáng tạo riêng, không chắp vá, không lai căng.

Trong thập niên 1990, đoàn Hồng Lạc đã tổ chức nhiều buổi diễn tại Canada cho người Việt tị nạn và người bản xứ, ngoài ra đoàn còn là niềm hãnh diện chung cho người Việt Nam khi tham dự những cuộc trình diễn văn nghệ quốc tế như World Music (1990), First Night Toronto (1992), Hong Kong Festival (1992), We Love Canada (1993)... Đoàn Hồng Lạc đã đoạt Giải Nhất cuộc Diễn hành Quốc khánh Canada năm 1993, đã tham dự Montreal Cultural Show năm 1994, và đặc biệt, đã tham dự Đại hội Quốc tế Dân ca Pyrénées tại Pháp năm 1996. Đây là một đại hội dân ca quốc tế lớn hàng năm, và năm 1996 đã có 18 quốc gia tham dự với 50 đoàn văn nghệ, 1200 nghệ sĩ trình diễn. Đoàn Hồng Lạc do Lệ Ba và Võ Châu (nhạc sĩ, phu quân Lệ Ba) hướng dẫn đã đạt được cảm tình rất lớn của khán giả và báo chí địa phương.

Năm 1998 Lệ Ba đã nhận được giải New Pioneers Arts Award của Canada, và năm 2000 cô có tên trong danh sách “150 Prominent Refugees” của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc UNHCR.

Ngoài các hoạt động trình diễn cùng với đoàn Hồng Lạc, Lệ Ba đã thực hiện:

-          Băng thơ Chính Khí Việt (1985) để hỗ trợ cho con tàu Ánh Sáng cứu người vượt biển.
-          CD Thơ (1999)
-          CD Kiều (2001)

Riêng CD Kiều là một công trình lớn của Lệ Ba, một công trình nằm trong mơ ước của cô từ nhiều năm, và cũng mất nhiều năm mới thực hiện xong. Thực ra Lệ Ba đã có duyên nợ với Kiều từ ngày nhỏ, mới khoảng năm, sáu tuổi đã thuộc hàng trăm câu Kiều, và hay bắt chước các điệu hát, ngâm thơ, ca Huế, hát cải lương... Càng lớn lên  cô càng yêu mến dân ca dân nhạc.

Gần đây, trả lời câu hỏi “Có được ai dạy hát, dạy ngâm thơ, dạy đàn hoặc dạy vũ một cách chính thức, chính quy không” trong một cuộc phỏng vấn của phóng viên Phượng Hoàng, đài phát thanh SBS bên Úc, Lệ Ba đã trả lời:

“Nói ra thì thật ốt dột, vì tôi không biết nhạc gì hết. Chỉ tự nhiên thích ngâm thơ thì ngâm thôi, cũng như dân ca thì nghe bằng tai rồi hát, chứ tôi không biết nhạc ... Tôi có cảm giác nếu biết nhạc thì tôi sẽ ngâm dở đi, vì sợ sai. Thầy Nguyễn Hữu Ba rất giỏi về nhạc cổ Huế, (ngày xưa) một hôm tôi lên thăm, ông lấy đờn cò và nói thầy dạy con hát bài Lý Ngựa Ô Huế. Tôi nói tôi thích bài đó lắm nhưng bài đó khó vì hát nhịp đảo, nhịp ngoại nhiều lắm, sợ hát không được. Thầy nói con cứ hát đi, đừng có lo, thầy theo con. Tôi cứ hát đại, thầy đàn, tự nhiên đúng nhịp, không hiểu tại sao. Tôi chỉ hát tự nhiên, rồi tự nhiên có nhịp, còn ráng theo nhịp thì sẽ lung tung hết.”

Xem thế thì rõ ràng Lệ Ba có một năng khiếu trời cho về ca ngâm. Năng khiếu ấy đã phát triển toàn diện khi cộng với một chất giọng cực tốt và khả năng thiên bẩm của tâm hồn để rung động, cảm nhận và thể hiện những tình cảm của dân tộc qua các làn điệu. Dân ca dân nhạc dường như đã có sẵn trong con người cô, là chính sự sống của cô, và hình như là chính lẽ sống của cô nữa. Cứ sống hồn nhiên, với các cơ duyên bình thường trong cuộc đời thì năng lực ca ngâm nơi cô cũng đủ phát tiết hơn người. Nhưng Lệ Ba là một người đam mê các môn văn nghệ truyền thống Việt Nam, từ nhỏ đã không ngừng lao vào, không ngừng học hỏi, vì cô biết cái thiên bẩm là điều kiện cần nhưng chưa đủ để thể hiện một cách thâm sâu và đa dạng tình cảm dân tộc qua các làn điệu. Năng khiếu và năng lực ấy như là kết tinh của bao hồn tài tử từ bao đời đã hát xướng ca ngâm, đồng thời đã rút hết tinh chất sự sống của mình để xây đắp nên một nền văn nghệ Việt Nam. Lệ Ba là kẻ nối tiếp và phát huy trong một bối cảnh đặc biệt hai triệu con dân nước Việt phải ra đi sống khắp nơi trên thế giới trong những môi trường văn hóa xa lạ, khơi động sợi tơ tình cảm đã được chế tạo từ bao đời trong hệ thần kinh của họ gồm những ca dao tục ngữ, những trống quân cò lả, những tuồng chèo, hát bội, cải lương, những câu hò hụi hò khoan, những điệu hát Nam ai Nam bằng, và, cũng tàng chứa trong đó những Kiều, Chinh phụ, Cung Oán, Lục Vân Tiên...

Ấp ủ từ lâu ước mơ thực hiện bằng ca ngâm tác phẩm thơ lớn nhất của Việt Nam là truyện Kiều, Lệ Ba phải nhờ sự trợ giúp của rất nhiều người và thực hiện kiên trì trong nhiều năm mới hoàn thành bộ CD Kiều. Trước hết, bắt đầu từ đâu trước 3234 câu Kiều? Chọn đoạn nào, sắp xếp thứ tự ra sao? Lệ Ba đã nhờ giáo sư Nguyễn Phan Cảnh ở Toronto giúp chọn ra những trích đoạn đầu tiên, rồi dựa vào đó người nghệ sĩ đọc lại toàn bộ truyện Kiều, lại chọn lựa và sắp xếp không những từng đoạn mà còn cân nhắc từng câu, không chỉ dựa trên bố cục của tác phẩm Kiều mà còn dựa trên nhận thức, cảm quan và cảm hứng của chính mình.  Có những đoạn Lệ Ba kết thúc lơ lửng, vì biết rằng nếu “ráng” thêm mấy câu nữa thì sẽ ngâm không hay; không phải vì mấy câu thêm đó không hay, nhưng chỉ vì nó không phù hợp với cảm hứng diễn ngâm của cô. Xem thế, đây là một nghệ sĩ trình diễn có cá tính mạnh, biết trung thành với những cảm quan nghệ thuật của mình.

Nếu về mặt nội dung truyện Kiều Lệ Ba được sự góp ý của giáo sư Nguyễn Phan Cảnh thì về mặt âm nhạc, giáo sư Trần Văn Khê là người cô đã tìm đến với cung cách “tầm sư học đạo” của thời xưa. Cô đã tâm sự với thính giả của SBS:

“Về phương diện âm nhạc tôi có qua Pháp hỏi bác (Trần Văn Khê) tất cả những đoạn mà tôi hát trong truyện Kiều do tôi đã nghĩ ra, nhưng không nắm rõ điệu đó như thế nào, có gì đặc biệt mình phải để ý hay phải tránh. Bác Khê là người ban đầu đã dẫn dắt rất nhiều. Bác đã dạy bồng mạc hát làm sao, sa mạc hát làm sao, lẩy Kiều hát ra sao... Ráng học, biết mình có nhiều chỗ khuyết điểm vì không phải là người ở trong ngành nhạc.”

Phóng viên Phượng Hoàng của đài SBS là một người rất chu đáo với thính giả của mình. Từ Úc cô đã gọi qua Pháp phỏng vấn giáo sư Trần Văn Khê để biết cho rõ về vụ “tầm sư học đạo” này, và được giáo sư Khê cho biết như sau:

“Hồi Tôn Nữ Lệ Ba định sang bên này để tìm hiểu thêm về cách ngâm thơ thì bác có nói bác không phải người chuyên môn ngâm thơ, thế nhưng trong nghiên cứu âm nhạc bác biết đủ các cách ngâm thơ, ngâm đúng hay không đúng thì bác đều biết, do đó nếu Lệ Ba muốn qua bên này thì bác sẽ xếp đặt tìm lại trong các dĩa hát xưa, chẳng hạn cách ngâm ‘sổng,’ ngâm sa mạc, bồng mạc, kể chuyện Kiều như thế nào, lẩy Kiều như thế nào để Lệ Ba nghe cho chính xác. Đồng thời bác có thể phân tích trong mỗi một cách ngâm chữ nhạc nào là cơ bản, cấu trúc âm thanh nó như thế nào. Lần đó Lệ Ba định sang đây với người chồng, người chồng biết âm nhạc nhiều hơn, Lệ Ba đóng cửa phòng mạch ở Toronto định hai vợ chồng sang bên này nhưng khi sắp đặt rồi thì người chồng bị mổ tim gấp, Lệ Ba phải đi một mình,  đem qua máy ghi âm ghi hình đồng thời nghe hết chuyện bác nói để về cho người chồng nghe lại thì bác cảm động vô cùng. Bởi vì một người có giọng ngâm rất hay mà muốn tìm hiểu những bí quyết trong cách ngâm thơ, bỏ thì giờ đi sang bên này, sớm mai 9 giờ đã có mặt tại nhà bác, ngồi học hỏi, trưa nghỉ một chút, qua bên quán cơm cạnh nhà để ăn, trở về nghe tới tối chín mười giờ mới trở về nhà. Năm ngày liên tiếp như vậy. Tới ngày cuối cùng còn nhiều chuyện chưa có hỏi được, hôm đó Lệ Ba chịu khó thức tới 12 giờ, 1 giờ khuya để hỏi cho hết. Điều đó cho bác thấy Lệ Ba là người nghiêm túc, lại được trời phú cho giọng rất tốt.

“Kiều là cái khó nhứt, thường thường người ta chỉ lẩy Kiều, lấy một đoạn trong Kiều người ta ngâm ra, có một cái hơi đặc biệt của lẩy Kiều ... Sau khi Lệ Ba nhận thức được lẩy Kiều chỗ nào luyến lên chỗ nào ngân xuống, nhưng có nhiều đoạn tôi thấy không thể nào ngâm theo các loại đó được. Chẳng hạn như câu Thúy Kiều nói với Thúy Vân: Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa..., rồi tới khi nhớ tới Kim Lang ‘Ôi Kim Lang, Hỡi Kim Lang, thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây’ không thể nào mà ngâm cái hơi nào mà nghe cho được, lúc đó phải la lên, phải khóc lên, than lên, thì cái điệu đó đã có trong tuồng hát bội, tức là chuyển qua hơi nam, hơi thán... rồi thêm tiếng đàn nam ai dồn dập họa chăng mới nói được cái tinh thần của lúc đó, (là lúc) Kiều la lên một tiếng mà kêu chàng Kim Lang. Lệ Ba nghe nói thú vị quá, đóng cửa phòng mạch nữa, đi qua bên Califonie tìm người hát bội học sáu ngày... Sau khi học ở bên Californie, cô làm cho tôi một bản nháp. Nghe bản nháp xong tôi chỉ trích từ đầu chí cuối, Lệ Ba bỏ bản nháp đó. Tôi bảo phải đi về Việt Nam, Lệ Ba về Việt Nam, học tại Sài Gòn, rồi gửi cho tôi nghe, tôi chỉ lại thật mau, Lệ Ba ghi âm lại hết, và sửa lại hết...”

Đọc đoạn trích lời giáo sư Trần Văn Khê như trên chúng ta thấy được tinh thần học hỏi của Lệ Ba như thế nào. Đó là người biết rõ cái mình có và cái mình chưa có. Cô đã có sẵn năng khiếu ca ngâm nhưng vì không được đào tạo chính quy, cô chưa biết gì nhiều về các điệu thức, các kỹ thuật, và thật may mắn cho cô – và cũng may mắn cho chúng ta – cô đã tìm được một ÔNG THẦY. Chỉ vì muốn hoàn chỉnh kỹ thuật ngâm Kiều, từ Toronto, đóng cửa phòng mạch cô bay qua Pháp; rồi chỉ vì cần học mấy câu hát bội để diễn tả “Ôi Kim Lang, hỡi Kim Lang...” cô bay đi California; rồi không nề hà bay về tận Việt Nam để học với những nghệ nhân gốc... Cái gì đã khiến cho cô chịu bỏ dở công việc, hao tốn tiền bạc và thì giờ như thế? Chỉ vì muốn ngâm những câu Kiều cho nghiêm chỉnh! Nếu không cố gắng vượt bực như thế thì làm sao đạt đến chỗ “đủ mùi ca ngâm” như hiện nay? Khi chúng ta thảnh thơi ngồi thưởng thức CD Kiều của Lệ Ba, thả hồn theo giọng ngâm tuyệt đẹp diễn đạt những tình huống thiên thu đã được thiên tài Nguyễn Du tạo ra, chúng ta phải biết đó là kết quả của biết bao cố gắng, biết bao công lao khó nhọc của một người đàn bà Việt Nam quyết một lòng làm cho được một cái gì tốt đẹp nhất cho văn hóa Việt Nam. Lệ Ba là người không chịu dễ dãi với chính mình.

Cư ngụ tại Toronto, nhưng mỗi khi thu âm thì cô phải đi Montreal, vì ở đó có người bạn tận tình giúp đỡ về mặt này. Mỗi lần thu xong ở Montreal, Lệ Ba mang băng về nghe lại suốt mấy tháng để thẩm định, rồi lại đi Montreal thu lại với các sửa chữa mới, rồi lại đem về để mỗi đêm khi đã xong công việc phòng mạch thì người nha sĩ - nghệ sĩ ấy lại nghe lại. Cứ như thế, trong ba năm, mới xong được CD Kiều.

Lệ Ba có kể rằng trong năm cuối của việc làm CD Kiều, vì thấy thời gian đã kéo quá dài mà công việc vẫn cứ dây dưa chưa đâu vào đâu, mỗi đêm cô đều thắp hương cầu khấn cụ Nguyễn Du, xin cụ phù hộ để công việc làm CD Kiều được sớm hoàn tất. Lời tâm sự này lại cho thấy một nét rất đẹp của tâm hồn Lệ Ba, đó là sự gắn bó thương yêu tiền nhân, thương yêu quá khứ của Việt Nam. Khấn cụ Nguyễn Du là một động tác, có thể là tượng trưng thôi, để “về” lại với vùng u linh của dân tộc, cũng tức là quá khứ của bao đời đã hun đúc nên vốn liếng văn hóa Việt Nam. Khi làm CD Kiều, có lẽ Lệ Ba sống nhiều trong một cảnh giới đặc biệt trong đó quá khứ và hiện tại nhập làm một trong một mối cảm thông u hiển. Không có mối cảm thông đó làm sao Lệ Ba có thể truyền cho chúng ta những nét tinh anh chất ngất của truyện Kiều?

Trong chuyến đi Úc tháng Chín vừa rồi, Lệ Ba trình diễn dân ca dân nhạc ở những sân khấu quần chúng, nhưng Kiều thì chỉ trình diễn trong các đại học. Đó là chủ ý của Lệ Ba, muốn cho sinh viên học sinh là giới trẻ Việt Nam tại hải ngoại hiểu thêm một chút về truyện Kiều, hoặc chưa biết thì họ có dịp biết. Những buổi như vậy không còn thuần túy là buổi diễn văn nghệ, mà là  một dịp trình bày, trao truyền văn hóa.

Năm 1996 đoàn Hồng Lạc tham gia đại hội Dân ca Dân nhạc thế giới tại Pyrénées, Pháp quốc, một hôm có một màn Lệ Ba hát chầu văn. Khi vừa hát xong, có một bà đầm người Pháp người cao to đến ôm lấy Lệ Ba khóc nức nở, khóc như mưa. Lệ Ba đang ngỡ ngàng lấy làm lạ quá thì bà đầm đã cất giọng nói một thứ tiếng Việt rất sõi: “Cô ơi, nghe cô hát tôi nhớ Việt Nam quá. Tôi đã ở Việt Nam đến mười tuổi, và thời gian đó đã theo mẹ tôi dự không biết bao nhiêu là buổi lên đồng...” Thì ra bà đầm có cha Pháp nhưng quê ngoại là Việt Nam. Tiếng hát chầu văn đã thành một yếu tố xây dựng nên tâm hồn bà từ tuổi ấu thơ. Bà kể rằng sau khi về đến Pháp, bà và chị của bà sống ở hai thành phố khác nhau, mỗi tuần hai người đều gọi điện thoại cho nhau chỉ cốt để nói toàn tiếng Việt với nhau.

Câu chuyện ấy giúp cho Lệ Ba hiểu rằng bất cứ người Việt Nam trẻ tuổi nào ở nước ngoài, dù sống và hấp thụ những nền văn hóa xa lạ, đều có sẵn vốn liếng văn hóa Việt Nam trong người. Chỉ cần có cơ hội khơi lên thôi. Và cô đem Kiều đến với họ với mục đích ấy. Khi hát Kiều cho họ nghe, cô thành một sứ giả. Sứ giả của một gia tài văn học nghệ thuật cổ truyền của Việt Nam, mang đến và khơi dậy nơi những người Việt Nam trẻ tuổi hải ngoại những vẻ đẹp ngàn năm của dân tộc mình, cho họ những giây phút hạnh phúc thấy lại chính mình, giúp họ khám phá ra rằng họ có một gia tài quý giá và to lớn mà chính họ không ngờ đến. Và chắc cũng không riêng tuổi trẻ hải ngoại, mà cả giới trẻ Việt Nam ở trong nước nữa, cũng đang cần, rất cần những làn gió an lành của những vẻ đẹp đích thực trong nền văn hóa Việt Nam.

Cuối năm 2002 


 Lệ Ba (áo đen đứng giữa) với các bạn học Gia Long ngày xưa, tại sân khấu báo Người Việt.