Câu tựa
đề trên có nghĩa là: tôi đọc quyển sách Đi Vào Cõi Tạo Hình của Đinh Cường. Đọc,
và thưởng thức vừa hội họa, vừa thi ca, vừa một công trình sưu tầm trong thế giới
nghệ thuật Việt Nam.
Đi Vào
Cõi Tạo Hình do nhà Văn Mới xuất bản vào giữa năm 2015. Ấn loát mỹ thuật, các bức
tranh đều được in màu đúng nguyên bản. Theo lời tác giả ở đầu sách thì cuốn này
là tập I của một bộ gồm hai cuốn: “Tập I
viết từ thời các họa sĩ xuất thân từ trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương những
năm 1930 cho đến giai đoạn chuyển tiếp 1954... Tập II sẽ viết về những họa sĩ
cùng thời từ 1957 đến 1966 thành lập Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam.” Như thế bộ
sách này sẽ không đề cập đến “nền hội họa xã hội chủ nghĩa” của miền Bắc, điều
này dễ hiểu, vì tác giả là người thừa kế của lớp đi trước từ trường Cao Đẳng Mỹ
Thuật Đông Dương, và sống cuộc đời nghệ thuật của ông tại miền Nam trước 1975.
Cuốn Đi
Vào Cõi Tạo Hình tập I này bắt đầu với Lê Phổ và kết thúc với Ngọc Dũng, khoảng
giữa tuần tự là Lê Văn Đệ, Mai Thứ, Nguyễn Gia Trí, Tôn Thất Đào, Nguyễn Đỗ
Cung, Điềm Phùng Thị, Trương Thị Thịnh, Tạ Tỵ, Văn Đen, Lê Văn Phương, Võ Đình,
Bùi Xuân Phái, Thái Tuấn, Duy Thanh. Tất cả 16 vị. Mỗi vị là một bài riêng, coi
như một chương sách, với tựa đề đặt đôi khi như một câu thơ: Lê Phổ: Những Đóa Hoa Hái Từ Một Giấc Chiêm
Bao; Văn Đen, Tiếng Vĩ Cầm Trong Chiều Tà Và Màu Nâu Đất Buồn; Võ Đình, Tổ Chim
Trên Bờ Biển; Họa Sĩ Ngọc Dũng, Vì Sao Rơi Vào Bất Tận... Tác giả đã nói
“đây là những đoạn ghi (...) chỉ thuần tình cảm chủ quan của tác giả với các họa
sĩ đã từng gặp, đã từng tiếp xúc” chứ không phải là một biên khảo có tính cách
chuyên môn về nghệ thuật.
Mai Trung Thứ - Trong gia đình
Dù không
nặng về biên khảo, mỗi bài tác giả đều cung cấp tương đối đầy đủ các thông tin
về cuộc đời của nhân vật với tiểu sử rất chi tiết. Mà để có những chi tiết này,
bắt buộc tác giả phải qua một công trình sưu tầm khá công phu. Ví dụ về Mai
Trung Thứ trên đất Pháp chỉ một câu đơn giản: “Ông đã gặp Fernand Léger và Picasso cùng nhiều họa sĩ một thời quần tụ ở
khu Montmartre nổi tiếng” là đã vẽ ra sự “hội nhập” của Mai Trung Thứ vào
môi trường sinh hoạt giới nghệ thuật quốc tế trong thời của ông như thế nào. Ví
dụ về các tác phẩm của Tôn Thất Đào bị hư hại và mất mát: “Theo ước tính của gia đình lên tới vài trăm bức, nay còn lại khoảng 30
bức tại nhà đang bị mục rã kể trên. Một số cho Hà Nội mượn triển lãm bị thất lạc,
một số bị trận lụt năm 1999 làm hư hỏng hết...”
Ngoài những
hiểu biết do sưu tầm, có nhiều thông tin rất riêng tư, là những kỷ niệm của tác
giả với chính nhân vật được nói đến. Đó là những thông tin duy nhất. Chính những
chi tiết này đã thổi một sinh khí đặc biệt cho các bài viết, nó tái tạo những mảng
đời sống sinh động không thể lẫn với các tài liệu khác. Như với Trương Thị Thịnh: “Chị Thịnh. Chúng tôi chỉ quen gọi như thế,
khi nhắc đến. Bởi vì đã từ lâu, chúng tôi xem chị như người Chị Cả trong sinh
hoạt hội họa của miền Nam - từ thập niên 1950 cho đến tận bây giờ. (...) Mỗi lần
về San Jose là mỗi lần chúng tôi hẹn nhau cùng đến thăm chị (...) Và thế nào chị
cũng mời cơm chiều tại cái tiệm Tàu ở gần nhà...”
Với Ngọc
Dũng: “Thỉnh thoảng buổi chiều tôi hay nhớ
anh. Anh hay gọi tôi qua uống với anh ly whisky, anh tự tay pha chế, vừa độ. Có
chiều anh lại ghé ngang tôi rủ qua quán cà phê Starbucks ngồi. Nhà tôi và nhà
anh gần nhau, chỉ cách mấy con đường. Mất anh, tôi thiếu vắng vô cùng một người
bạn vong niên về nghệ thuật, nơi thành phố này.”
Ngọc Dũng. Tĩnh vật, Sơn dầu
Quyển
này nói về lớp họa sĩ trước mình, nên tác giả coi họ là đàn anh đàn chị, và với
một số, tác giả coi là bạn vong niên. Trong thế giới tạo hình, tình bạn như thế
là dễ hiểu, vì dù cách biệt tuổi tác, họ vẫn luôn luôn có một mẫu số chung là
nghệ thuật. Cá tính một nghệ sĩ nhìn qua lăng kính của một người bạn, thì hẳn
khó tìm thấy trong các công trình nghiên cứu chuyên môn, nhưng nó lại cho ta biết
nhiều nét bất ngờ thú vị, từ đó có thể soi sáng thêm cho việc nghiên cứu tác phẩm
và quan niệm nghệ thuật của người ấy.
Nhưng dù
đã nói trước chỉ viết với “thuần tình cảm chủ quan”, chúng ta thấy Đinh Cường rất
thận trọng trong việc nhận định về sự nghiệp của các họa sĩ. Dĩ nhiên đây là lớp
họa sĩ đi trước tác giả một thế hệ, sự nghiệp, danh tiếng của họ hầu đã được khẳng
định, nhưng Đinh Cường khi trình bày về họ vẫn chọn lọc những nhận xét đắt nhất
của các cây bút phê bình nghệ thuật, hoặc khi là những nhận xét của chính mình
thì lời lẽ rất cân nhắc mặc dù vẫn toát ra cái “tình cảm rất chủ quan”. Khi đọc
trích dẫn dù một câu có vẻ đơn giản của một nhà phê bình, độc giả phải hiểu rằng
để có được một câu như thế, tác giả phải đọc và thẩm định rất nhiều tài liệu, để
tìm ra những lời lẽ thích đáng nhất. Đó chỉ có thể là công việc của người hiểu
rõ hội họa, nói nôm na là người trong nghề: trước hết đã nghiên cứu kỹ đối tượng
mình đang nói tới, tiếp đến lựa chọn một lời phê bình mà mình cho là sát thực
nhất. Đây là một quá trình nặng nhọc đòi hỏi nhiều thời gian của một người biên
khảo, mang nặng tính chất khách quan của khảo sát khoa học. Ví dụ nói về sơn
mài của Nguyễn Gia Trí mà trích dẫn được những lời này của Tô Ngọc Vân trên báo
Ngày Nay thì không chỉ cần công phu của kẻ sưu tầm giỏi, mà còn một tấm lòng hiểu
biết và đồng cảm trọn vẹn, vừa với sơn mài, vừa với Nguyễn Gia Trí và vừa với cả
Tô Tử:
“Đến cuộc thí nghiệm của Nguyễn Gia Trí, lối
Sơn Ta không còn là một mỹ nghệ nữa. Ở óc, ở tâm hồn người làm ra nó đã được
nâng lên mỹ thuật thượng đẳng. Nghệ thuật của Nguyễn Gia Trí là ý tưởng tình cảm
của Nguyễn Gia Trí đúc lại, một nét, một vết, một màu đều ở tay nghệ sĩ mà ra.
(...) Trên những màu hồng nhợt biến hóa, những sắc nâu ngon thiệt là ngon, những
vỏ trứng như đổi cả thể chất thành quý vật, vài nét bạc, vài nét vàng sáng rọi,
rung lên, rít lên như tiếng kêu sung sướng của xác thịt khi vào cực lạc...”
Năm
1995, nhân chuyến đi nghiên cứu hội họa tại Pháp, Trịnh Cung đã gặp Lê Phổ và
đã nhận xét về người họa sĩ lão thành:
“... Trong dòng thác nghệ thuật
thời ấy luôn bùng lên những đợt sóng dữ dội, Lê Phổ đã không bị chìm lấp, mà
trái lại các tác phẩm hội họa của ông vừa thể hiện một trình độ sử dụng sơn dầu
hết sức điêu luyện, đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật ấn tượng - làm bừng thức một
thiên nhiên lung linh hoa lá, vừa gợi cảm một thế giới xa vắng đầy yêu thương
mà người họa sĩ đã đánh mất trong những ngày tháng rời xa quê nhà...”
Hoặc khi
viết về Tôn Thất Đào mà tác giả coi là họa sĩ bậc thầy của Huế, một nhận xét rất
đẹp của Huỳnh Hữu Ủy đã được trích dẫn:
“Trước tiên phải nói đến sông Hương. Bởi vì
chính trên dòng nước trong veo ấy, Cựu Kinh đã soi bóng mình qua nhiều thế kỷ
thăng trầm, rồi từ đó đã dựng nên một nền văn hóa riêng: văn hóa Huế...”
Những chọn
lựa đầy chủ ý của Đinh Cường về ý kiến của người khác rải rác trong sách đã
giúp độc giả rất nhiều trong việc nắm bắt tính chất các nghệ sĩ được nói đến. Mỗi
người nhìn một cách khác nhau, khám phá khác nhau về tài năng, cảm xúc, phương
pháp v.v... với độ chính xác riêng của con mắt mình, trong thời của mình. Đó là
một kho báu mà không phải ai cũng có khả năng khai thác để cống hiến cho độc giả.
Người khảo cứu mẫn cảm, có khả năng lựa chọn và thẩm định chính xác những gì
mình trích dẫn rất cần thiết để xây dựng lại hình ảnh của từng người nghệ sĩ
qua từng thời đại.
Tuy
nhiên những phần như tiểu sử hay sưu tầm các nhận xét của người khác chỉ là những
chuẩn bị cho phần chính là ý kiến của tác giả. Trong nghệ thuật ý kiến về nghệ
sĩ hay về tác phẩm luôn luôn mang nặng tính chất chủ quan tuy rằng sự hiểu biết
về chuyên môn vẫn luôn là điều kiện cần thiết. Con mắt và tâm hồn cảm nhận được
vẻ đẹp của một họa phẩm, đó là điều cần thiết đầu tiên của người sắp viết về
nghệ thuật, nhưng phổ vẻ đẹp ấy bằng một phương tiện khác là ngôn ngữ cho người
khác hiểu và cảm được như mình thì là điều không đơn giản. Người viết phải có
cái tài hoa trong việc sử dụng ngôn ngữ thì mới chuyển được cái đẹp từ một bức
tranh thành cái đẹp trên trang sách. Tái tạo vẻ đẹp của hình thể, màu sắc thành
chữ nghĩa, làm sao cho người đọc hiểu được, hình dung được phần nào thế giới tạo
hình, đó là công việc đầy khó khăn của người viết về mỹ thuật. Chúng ta hãy
cùng Đinh Cường đi vào cõi tạo hình.
“Tranh Lê Phổ được trưng bày tại Musée d’Art
Moderne ở Paris, Musée d’Oklahoma (USA) và trong rất nhiều bộ sưu tập tư nhân
trên thế giới. Rất nhiều người yêu chuộng tranh ông, vì ở đó là một bản màu đa
sắc đầy lạc thú, là khúc hợp tấu giao hưởng những sắc vàng - ông thích nhất màu
vàng chanh (jaune citron). Là sự tươi mát của thị giác. Đề tài chính của ông ít
thay đổi: Một con thuyền trôi giữa đám sen, những thiếu nữ chập chờn trẩy hái
trong khu vườn thượng giới rực rỡ. Cử chỉ khoan thai, trang nhã, dịu dàng như
đang bày yến tiệc trong không khí tươi mươi của mùa Xuân. Những đóa hoa ông vẽ
biến đổi một cách kỳ diệu, huy hoàng, đôi khi là những đá hoa hái từ một giấc
chiêm bao...”
Ta thấy
tác giả đang viết một bài thơ văn xuôi, vì phải dùng ngôn ngữ thi ca mang một ý
nghĩa trừu tượng mới có thể dẫn dắt tạo ra nơi người đọc những cảm giác và hình
ảnh để hiểu được ngôn ngữ của hội họa: đa
sắc đầy lạc thú, giao hưởng những sắc vàng, khu vườn thượng giới rực rỡ, những
đóa hoa hái từ một giấc chiêm bao... mới tái tạo được thế giới rạo rực
trong tranh Lê Phổ. Phải sành sõi về họa, về văn xuôi, về làm thơ mới có thể viết
một đoạn văn tả một họa phẩm với hiệu ứng cao như thế.
Lê Văn Đệ. Nắng Hè, lụa, 1962.
Viết về
Lê Văn Đệ, tác giả mượn sự việc rất phong phú trong đời của vị họa sư này để mô
tả sự thành công và danh tiếng của ông nhiều hơn là ý kiến của riêng mình, vốn
chỉ trong vài đoạn ngắn:
“Ngoài bột màu, sơn dầu, Lê Văn Đệ nổi tiếng
nhất là lụa, cũng như Nguyễn Phan Chánh, người bạn đồng khóa với ông. Nhưng hai
tính chất của hai bực thầy về tranh lụa Việt Nam khác nhau. Tranh Lê Văn Đệ óng
chuốt, có tính đài các, quý phái, ngược lại tranh Nguyễn Phan Chánh tạo mặt phẳng
dẹt, giữa một gam màu nâu cố hữu, bình dị, mộc mạc, mang đầy âm sắc quê hương.”
Nhưng đặc
biệt là đoạn sau đây, kể về phong cách dạy học của thầy Lê Văn Đệ mà tác giả đã
theo học một thời gian:
“Đó là một người thầy sửa bài hay nhất. Chỉ cần
một nét quệt ngón tay của Thầy vào bài là thấy ngay chỗ sai, nét than bay bớt
đi, nét nhấn khối đậm thêm, hình vẽ mới được chắc, độ đậm nhạt cũng rõ ràng...”
Hạnh
phúc thay, Thầy Lê Văn Đệ! Nửa thế kỷ sau khi thầy qua đời, được một học trò
ngày nay cũng là một họa sĩ danh tiếng, ca tụng cái “quệt ngón tay” đầy tài hoa
của Thầy trong khi sửa bài. Đinh Cường đã biến cái sát na quệt ngón tay ấy trở
thành thiên thu khi cảm nhận và mô tả được tính chất thiên tài trong cách dạy dỗ
của Thầy mình.
Đối với
lớp họa sĩ đàn anh đàn chị gần mình hơn, nghĩa là trẻ hơn những vị học các khóa
đầu của trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương, cách nói của tác giả về mỗi người
có khác với lớp trước. Nhiều dáng vẻ bạn bè hơn. Thân thiết hơn. Tình cảm trong
giao tiếp nhiều hơn là thẩm định trực tiếp về nghệ thuật. Nhưng tình cảm là đủ
để nói lên mọi chuyện, trong đó có nghệ thuật.
Thái Tuấn. Khăn quàng, sơn dầu, 1992
Bài về
Thái Tuấn là một bài đặc biệt của cuốn sách này. Đó là một dạng tổng hợp, tiểu
sử theo lối kể chuyện với nhiều chi tiết riêng tư; các giao tiếp, sinh hoạt, nhận
định nghệ thuật viết nửa như tự sự nửa tùy bút. Các nhận xét về tác phẩm lóe
lên đây đó như những phát giác tình cờ mà nội dung thì đầy đặn như là suy ngẫm
đã thấu đáo trong nhiều năm. Đó là bài viết cho một tri kỷ, cho người mình yêu
mến. Mà tác giả đâu có giấu việc đó, ông nói họa sĩ ở miền Nam ông thích nhất
Thái Tuấn. Chỉ những người bạn thân nhau mới hiểu những nét vi tế của nhau. Mà
người của nghệ thuật thì đời sống nội tâm càng phức tạp và tế nhị, chỉ dùng lý
trí thì không thấy, dùng con mắt kỹ thuật hội họa có thể hiểu ít nhiều, nhưng
khi đã là bạn thân của nhau, với tình cảm, người ta hiểu hết. Hiểu tâm hồn trước,
từ đó sẽ hiểu tác phẩm, thưởng thức tác phẩm, và thành tri kỷ của nhau.
“Có lẽ cũng trong cái không khí
lãng đãng của nhạc (Trịnh
Công) Sơn mà anh đã vẽ “Xin Mưa Đầy”
với tiếng hát Khánh Ly. Nhìn tranh là nhận ra ngay hình dáng, khuôn mặt Khánh
Ly. Anh rất nhạy cảm với thi ca và âm nhạc. Tạo cho tính chất hội họa sự phong
phú của cuộc sống nội tâm, biến bức tranh thành tiếng vang của một cấu trúc tiềm
ẩn. Phảng phất trên những tranh thiếu nữ anh vẽ ta còn nhìn ra:
Lê Uyên (Phương), Ý Lan...
Bức
tranh Cơn Gió Bụi - Phạm Duy thời kháng chiến. Sưu tập Frédéric và Xuân Đài,
Paris.
Anh thích những tiếng hát tha thiết đó, đầy say đắm
đó? Anh chỉ vẽ tiếng hát chứ không vẽ người mẫu mà vẫn nhìn ra. Cũng như ở bức
“Cơn Gió Bụi” vẫn thấy một hình dáng Phạm Duy của thời Bà Mẹ Gio Linh... Anh
thường tâm sự “vẽ
người mà không vẽ người” là vậy. Anh chỉ
vẽ những tình cảm đã nhập vào anh, ẩn sâu trong tiềm thức. Khi vẽ tự động ra.”
Khó có
ai hiểu đặc tính của một tâm hồn nghệ sĩ giống như Đinh Cường hiểu Thái Tuấn,
“biến bức tranh thành tiếng vang của một cấu trúc tiềm ẩn” là một cảm nhận hết
sức sâu sắc quá trình sáng tác của bạn mình. Tác giả còn nhận ra những điều ít
ai biết “Anh rất ghét cái mũi. Và không
có khuôn mặt nào anh vẽ mũi. Nhưng cái giỏi là ta vẫn nhìn ra một khuôn mặt
mang đầy biểu tượng. Cái nào cần giản lược là anh giản lược.” Ngay cả khi vẽ
thiên nhiên:
“Tôi đặc biệt thích những bức phong cảnh miền
núi của anh. Những xóm nhà, những phiên chợ dưới núi, hàng cây, có khi là bóng
một cây đa lớn, ngôi miễu trắng, dòng sông là một vệt cọ chạy dài thanh thoát lạ
kỳ.”
Để đến một
nhận định chung:
“Nhìn ngắm lâu tranh của anh tôi càng thấy hồn
mình trầm xuống, đó chính là sự đạt đạo trong nghệ thuật.”
*
Sau
1975, tác giả có cái may mắn tiếp tục sinh hoạt hội họa trong môi trường sau
khi hai miền Nam Bắc đã nhập làm một. Anh đã được gặp những tên tuổi chưa xưa lắm
nhưng đã thành xa xôi như huyền thoại vì sự cách biệt 20 năm Nam Bắc: Nguyễn Đỗ
Cung, Bùi Xuân Phái... với sự kính phục về tài năng cũng như nhân cách. Đồng thời
cũng nhìn ra vài cung cách lạ lùng của chính quyền cộng sản đối với lịch sử hội
họa của đất nước:
“Trong ‘Các Họa Sĩ Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật
Đông Dương’ do nhà xuất bản Mỹ Thuật Hà Nội in năm 1993, tác giả Nguyễn Quang
Phòng đã không công bằng khi ‘quên nhắc’ đến các họa sĩ tốt nghiệp trường Cao Đẳng
Mỹ Thuật Đông Dương ở miền Nam, nhất là hai vị giám đốc của hai trường Quốc Gia
Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định và Cao Đẳng Mỹ thuật Huế: Lê Văn Đệ và Tôn Thất Đào,
chỉ nhắc qua vài dòng về Lê Văn Đệ, không thấy in tranh của hai ông. Còn nhiều
họa sĩ, giáo sư như Nguyễn Văn Long, Lưu Đình Khải, Lê Yên, U Văn An... ở miền
Nam đều tốt nghiệp ở Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương tuyệt nhiên bị quên lãng...”
Đó là
sinh hoạt công khai, mặt nổi. Ở miền Bắc còn có một tầng sinh hoạt khác “về nghệ
thuật”:
“Riêng Lê Phổ cũng có ý định tặng cho Viện Bảo
Tàng Hà Nội nhiều tranh. (...) Cho đến nay chuyện ấy vẫn chưa thành. Viện Bảo
tàng Mỹ thuật Hà Nội gần đây vẫn chưa giải tỏa nhiều thắc mắc của công chúng
yêu nghệ thuật về chuyện bản chính hay bản sao của nhiều bức hiện đang trưng
bày. Thậm chí tác phẩm sơn dầu nổi tiếng ‘Thiếu nữ bên hoa huệ’ của Tô Ngọc
Vân, vẫn chưa biết đích xác bản chính đang ở đâu.”
Về sự hư
hoại và mất mát tranh của họa sĩ Tôn Thất Đào tại Huế, tác giả viết: “Một số cho Hà Nội mượn triển lãm bị thất lạc,
một số bị trận lụt năm 1999 làm hư hỏng hết...” chúng ta không thể không
chú ý, bên cạnh thiên tai là lụt lội, lại còn cảnh thê thảm Một số cho Hà Nội mượn triển lãm bị thất lạc.
Thất lạc đi đâu, không cần nói, ai cũng biết.
Dối trá,
bóp méo lịch sử nói chung, trong đó có lịch sử hội họa. Đó là tính chất mafia của
chính quyền cộng sản, từ lâu rồi, thời Liên xô cho đến bây giờ đều như thế cả.
Nhưng cái mafia của tầng ngầm càng khủng khiếp hơn: các tác phẩm có giá trị cao
của quốc gia đều có thể âm thầm đội nón ra đi, thay vào đó là các tranh sao
chép. (*)
Giới viết
lách về hội họa của Hà Nội có biết những việc ấy không? Có ai đề cập tới không?
Ở nước ngoài chúng ta thiếu thông tin về các việc này, chỉ nghĩ rằng trong một
thời đại mà cả guồng máy công quyền có thể cùng nhau biển thủ hàng tỉ mỹ kim,
thì nhằm nhò gì vài ba bức tranh cũ, ai hơi đâu mà nhắc tới? Nhưng Đinh Cường
nhắc tới. Chúng ta phải ngậm ngùi tưởng niệm những bức danh họa do những “đấng
tài hoa” Việt Nam tạo nên đã âm thầm biến mất khỏi các Bảo tàng Nghệ thuật và
không bao giờ biết chúng đã ra đi phương nào, và bao nhiêu đồng đô la đã chảy
vào túi những quan chức văn hóa. Chúng ta phải cám ơn họa sĩ Đinh Cường đã nêu
vấn đề này lên, ít ra để mọi người biết, và có một phút mặc niệm, thương tiếc
cho những mất mát của nước nhà.
Tôi nghĩ
Đinh Cường vừa hoàn tất một tác phẩm quý, giới thiệu một loạt các khuôn mặt nghệ
sĩ tạo hình đi trước mình, trong một giai đoạn lịch sử hội họa chưa đầy một thế
kỷ của Việt Nam. Đi trước mình nhưng không xa lắm, đó có thể là những người thầy
của mình, những đàn anh đàn chị mà anh đã từng quen biết, đã từng thân thiết.
Các chi tiết về cuộc đời sáng tạo của lớp nghệ sĩ này anh sưu tập khá đầy đủ,
chưa kể trải nghiệm của chính anh trong quá trình tiếp xúc với họ, thậm chí làm
bạn với họ. Thế hệ trước và sau đôi khi chỉ là cách phân biệt mong manh, không
diễn tả một cách biệt nào rõ rệt trong thế giới nghệ thuật. Đinh Cường đã viết
về họ như một người nghiên cứu khá sâu sát một cách khách quan, đồng thời như một
người trong cuộc, thở cùng nhịp thời đại, rung động về những đề tài gần gũi với
họ.
Và với
dư vang của không khí tươi đẹp, đầy tình cảm mà cũng rất chuẩn xác của tác phẩm
này, chúng ta chờ đợi Đi Vào Cõi Tạo Hình cuốn II, Đinh Cường sẽ nói về thế giới
tạo hình của chính thế hệ mình, sắp ra đời nay mai.
Ngày 5
tháng Tám, 2015.
* Mời đọc bổ túc: Đoạn sau đây trích từ
bài “Hệ thống ăn cắp sinh văn hóa ăn cắp” của Ngô Nhân Dụng đăng trên báo mạng
Diễn Đàn Thế Kỷ ngày 29 tháng Bảy 2015.
“Phải kể hầu quý vị chuyện một
công dân hiền lành ở bên Tàu là họa sĩ Tiêu Nguyên (Xiao
Yuan, 萧元). Tiêu Nguyên là họa sĩ, làm
quản thủ mỹ thuật trong thư viện của Học viện Mỹ thuật Quảng Châu (廣州美術學院), cho đến khi về hưu năm 2010.
Thư viện treo nhiều tranh, ông từng là tác giả nhiều sách về mỹ thuật Trung
Hoa. Nếu không sống dưới chế độ cộng sản thì chắc suốt đời ông vẫn chỉ là một
quản thủ thư viện, một nhà nghiên cứu hiền lành, lương thiện.
Cuối tháng Bảy 2015, Tiêu
Nguyên mới bị kéo ra tòa, cung khai sự nghiệp ăn cắp tranh từ thư viện
trong ba năm trời, ăn cắp ngay trước mắt mọi người.
“Năm 2003, Học viện Mỹ thuật
bắt đầu đưa cả bộ tranh trong thư viện vào computer lưu trữ, cho giới nghiên
cứu dễ tìm tòi. Khi tiến hành công việc “số hóa” (digitalize), Tiêu Nguyên khám phá ra có nhiều bức treo trên tường là tranh
giả. Có người treo tranh giả vô đó, tức là các bức tranh thật đã bị đánh tráo
mất rồi. Khám phá ra tội trộm cắp ngay trong sở làm, Tiêu Nguyên lẳng lặng
không nói gì với ai; vì đã thấy một cơ hội cho chính mình làm ăn. Sống trong
một xã hội nhìn quanh thấy toàn bọn ăn cắp ngồi trên cao, mọi người không ai
được tố giác mà còn phải vỗ tay hoan hô chúng, được dịp ăn cắp mà bỏ qua thì
ngu dại quá!
“Tiêu Nguyên đi mua những tờ
giấy trắng cũ và cả loại mực cũ, càng cũ càng trông giống tranh cổ. Mỗi cuối
tuần, ông mượn các bức tranh thật về nhà, sao chép tỉ mỉ. Cho đến khi bức tranh
giả hoàn tất thì mang đến treo lên tường; chả ai biết gì cả. Làm ăn như vậy,
tới năm 2006 Tiêu Nguyên phải ngưng, vì cả bộ sưu tập chuyển đi nơi khác. Tổng
cộng Tiêu Nguyên đã ăn cắp được 143 bức tranh, bán 125 bức thu vào 34 triệu
đồng nguyên (khoảng gần 6 triệu đô la Mỹ). “Phần lớn tranh quý bán qua nhà đấu
giá Trung Quốc Gia Đức Phách Mại (China Guardian Auctions 中国嘉德拍卖). Tranh đem bán được giá vì có
tác phẩm của các họa sĩ nổi danh trong thế kỷ 20 như Tề Bạch Thạch (Qi
Baishi, 齐白石), Trương Đại Thiên (Zhang Daqian, 张大千). Năm 2012 một bức tranh của Tề Bạch Thạch bán ở
Bắc Kinh với giá 72 triệu nguyên! Những tranh cổ được giá là của họa sĩ
Chu Đáp đời Thanh (Zhu Da, 朱耷;1626-1705).
“Khi bị bắt, Tiêu Nguyên còn giữ 18 bức tranh quý, trị giá 77 triệu nguyên, gần12 triệu rưỡi đô la. Chắc các bức tranh đó sẽ được trả lại cho Học viện Mỹ thuật Quảng Châu. Nhưng số phận chúng sau này sẽ ra sao, khó đoán được. Bởi vì những bức tranh Tiêu Nguyên vẽ giả đem treo trong thư viện sau đó vẫn có người đánh tráo bằng những bức tranh “giả hơn!” Ra trước tòa, Tiêu Nguyên khai ông nhìn thấy ngay là tranh giả, sao chép vụng về, xấu hơn tranh giả của ông nhiều! Tất nhiên khi nhìn thấy ông cũng không dám tố giác những tay ăn cắp kế nghiệp mình. Vì nếu mở cuộc điều tra thì người ta sẽ khám phá ra những bức tranh bị đánh tráo đem đi cũng là đồ giả, họ sẽ hỏi tới ông.”
“Khi bị bắt, Tiêu Nguyên còn giữ 18 bức tranh quý, trị giá 77 triệu nguyên, gần12 triệu rưỡi đô la. Chắc các bức tranh đó sẽ được trả lại cho Học viện Mỹ thuật Quảng Châu. Nhưng số phận chúng sau này sẽ ra sao, khó đoán được. Bởi vì những bức tranh Tiêu Nguyên vẽ giả đem treo trong thư viện sau đó vẫn có người đánh tráo bằng những bức tranh “giả hơn!” Ra trước tòa, Tiêu Nguyên khai ông nhìn thấy ngay là tranh giả, sao chép vụng về, xấu hơn tranh giả của ông nhiều! Tất nhiên khi nhìn thấy ông cũng không dám tố giác những tay ăn cắp kế nghiệp mình. Vì nếu mở cuộc điều tra thì người ta sẽ khám phá ra những bức tranh bị đánh tráo đem đi cũng là đồ giả, họ sẽ hỏi tới ông.”
(Hết trích)