Trong năm 2010 này, nhà xuất bản Người
Việt đã phát hành một lúc hai tác phẩm mang tên chung là Thời Đại Của Tôi của
giáo sư Vũ Quốc Thúc, cuốn I có tên riêng là Nhìn Lại 100 Năm Lịch Sử, cuốn II
là Đời Tôi Trải Qua Các Thời Biến.
Cuốn thứ nhất, Nhìn Lại 100 Năm Lịch Sử,
dày hơn 400 trang hẳn nhiên là một cuốn sách về lịch sử, nhưng được tác giả
khẳng định không phải là một thiên khảo luận về lịch sử Việt Nam, cũng không
phải là một luận đề về chính trị hay xã hội học, mà chỉ là một bản tóm lược
những điều mà tác giả thâu thái được trong khi cố gắng tìm hiểu về thời đại của
mình. Không kể phần Phụ Lục, sách chia ra làm năm hồi: Hồi thứ nhất: Việt Nam
dưới chế độ thuộc Pháp; hồi thứ hai: Việt Nam trong cuộc thế chiến 1939- 1945;
hồi thứ ba: Việt Nam tranh đấu giành lại độc lập; hồi thứ tư: Việt Nam trong
cảnh qua phân lãnh thổ; hồi thứ năm: Việt Nam tái thống nhất dưới chế độ Cộng
sản. Trong mỗi hồi, tác giả chia ra từng giai đoạn hay từng vấn đề để xem xét
riêng rẽ, trong mục đích, như tác giả khẳng định từ đầu, là để cố gắng tìm hiểu
thời đại của mình. Đó là những đề tài tác giả khai triển lịch sử phần nào theo
cái nhìn riêng, cốt để nhấn mạnh đặc tính của giai đoạn đó mà không bị bóp méo
đi như một số tài liệu khác. Nhìn chung, cuốn thứ nhất chính là cái khung thời
gian và không gian cần thiết phải được giới thiệu trước để chuẩn bị cho cuốn
sau trong đó tác giả kể những sự việc của đời mình qua từng giai đoạn. Đây là
công việc phần nào mang đặc tính của một nhà giáo, rất sư phạm: đó là, trước
khi kể chuyện đời mình, tác giả đã vẽ ra trước cho độc giả thấy cái bối cảnh
rộng lớn làm nền cho cả tấn kịch đời của tác giả sẽ được kể trong cuốn II. Sự
chuẩn bị đó rất cần thiết, có lẽ tác giả nhắm cho các thế hệ độc giả mai sau để
hiểu được câu chuyện sẽ được kể trong từng giai đoạn lịch sử tương ứng với tất
cả đặc điểm của nó.
Cuốn thứ hai với tên gọi Đời Tôi Trải
Qua Các Thời Biến thì đích thực là một cuốn hồi ký. Về cái tên chung Thời Đại
Của Tôi, theo tác giả là để xác định ranh giới cho cuốn sách, rằng đây là một
cái gì “của tôi” chứ không phải là một cuốn lịch sử, đòi hỏi một quá trình làm
việc rất khoa học và phiền toái của một sử gia. Trái lại tác giả chỉ chú trọng
vào những phản ứng về mặt tâm lý và tinh thần mà các biến cố lịch sử gây ra
trong tâm khảm của mình. Khoảng thời gian mà tác giả gọi là “Thời đại của tôi”
để nhìn lại và suy ngẫm được ấn định là 90 năm, kể từ khi tác giả được sinh ra
năm 1920 cho đến năm nay 2010, khi tác giả viết những dòng cuối cho cuốn sách
này. Cuốn sách cũng được chia làm năm hồi. Hồi
thứ nhất: trước khi Thế chiến II
(1939- 1945) bùng nổ; hồi thứ hai: từ
tháng 9 năm 1939, tức thời điểm xảy ra cuộc thế giới chiến tranh thứ 2, cho tới
cuộc đảo chánh ngày 9 tháng 3 năm 1945 ở Việt Nam, ngày Nhật đảo chánh Pháp; hồi thứ ba: từ 9 tháng 3, 1945 tới hiệp
định Genève ngày 20.7.1954, chia đôi đất nước Việt Nam; hồi thứ tư: từ tháng 7.1954 tới 30.4.1975, Việt Nam tái thống nhất
do sự xâm chiếm của chế độ Cộng sản Việt Nam; hồi thứ năm: Từ tháng 4, 1975 tới nay.
Đọc hết năm hồi này qua 700 trang sách,
cảm tưởng đầu tiên của người đọc phải là ngạc nhiên về trí nhớ phi thường của
tác giả. Ông bắt đầu viết thiên hồi ý này khá trễ, vào năm 1996 là lúc ông đã
76 tuổi, thế mà ông kể lại tường tận tỉ mỉ từ chuyện xa nhất như môi trường gia
đình của ông từ ngày ông sinh ra, đến việc học hành, thi cử, ra đời làm việc,
những biến cố trong đời..., không phải chỉ việc riêng của cá nhân ông, mà luôn
luôn đầy những nối kết với xã hội, với môi trường thời đại, với vô số nhân vật
đương thời. Đúng là những trang sách của ông đã tạo nên bức bích họa của thời
đại ông, dù là thời ông còn nhỏ, hay thời kháng chiến của Việt Minh, lúc đi thi
tiến sĩ và thạc sĩ bên Pháp, hoặc thời giữ những chức vụ quan trọng trong chính
quyền miền Nam, hay quãng đời sau 1975 đi tị nạn bên Pháp. Giai đoạn nào ông
viết cũng đâu ra đấy, sự việc nào cũng đầy đủ đầu đuôi gốc ngọn, chuyện cá nhân
và chuyện thời đại xen kẽ, đan kết nhau, bổ túc cho nhau để làm nên một bức tranh
hoàn chỉnh. Đây không phải là những trang hồi ký để đề cao cái ta của tác giả, không,
người đọc tuyệt nhiên không nhận thấy điều ấy, mà càng đọc càng say sưa vì các
chi tiết sống động của xã hội đương thời mang đầy sinh khí cho mọi câu chuyện
được kể. Đọc ông, người ta thấy rõ cái tinh thần đại học được thể hiện ở từng
trang: uyên bác, tôn trọng sự thật đến tối đa, cộng với tài kể chuyện duyên
dáng mà thành thật, khiến cho người đọc dễ dàng cảm thấy một niềm tin cậy, khiến
cái ông gọi là “thời đại của tôi” biến thành “thời đại của chúng ta” lúc nào
không hay. Biến cái riêng của mình thành cái chung của mọi người, đó là sự lớn
lao của cuốn hồi ký này. Lời kể của ông đã phản ảnh cả một thời đại trong đó
cuộc đời ông đã trải qua, đó cũng là thời đại chứa đựng cuộc đời của hầu hết
chúng ta hôm nay, đọc ông chúng ta sẽ đồng cảm với ông, và sẽ thầm cám ơn ông
đã nói hộ cho chúng ta vô số điều mà ta không đủ điều kiện để biết hết.
Trước hết cuốn hồi ký này đã cống hiến
cho người đọc rất nhiều tư liệu về văn hóa Việt Nam. Chỉ nội một chương đầu
tiên, có tên là Môi Trường Gia Đình, chúng ta được biết nhiều điều về thành phố
Nam Định từ cổ truyền cho đến khi thuộc Pháp, sự buôn bán làm ăn ở đó, cư dân
và truyền thống văn học khoa cử của đất thành Nam v.v...; từ thông tin gia đình
ông vốn trước kia họ Phạm, từ thế kỷ 17 đổi sang họ Vũ, chúng ta được đọc hầu
như cả một thiên khảo cứu về việc đổi họ ở nước ta; từ một chi tiết “truyền
thống thờ tổ tiên của gia đình tôi” chúng ta được biết buổi lễ học vỡ lòng cuốn
Tam Tự Kinh của tác giả đã xảy ra như thế nào, tinh thần Nho giáo “quỷ thần
kính nhi viễn chi” đã khiến thân phụ của tác giả thờ ơ đối với mọi tôn giáo
khác mà chỉ coi việc thờ cùng tổ tiên là vô cùng hệ trọng ra sao. Với cung cách
nghiên cứu đại học, hầu như bất cứ việc nhỏ nhặt nào cũng được tác giả trình
bày đến tận nguyên ủy. Chỉ riêng về khía cạnh văn hóa, độc giả có thể học từ
cuốn sách này vô số điều.
Giáo sư Vũ Quốc Thúc, là một nhà khoa
bảng lớn của Việt Nam, ông đã đậu Tiến sĩ Luật và Thạc sĩ Đại học Kinh tế tại
Pháp. Cuốn hồi ký đã cho thấy truyền thống học vấn sâu dày của tổ tiên đã ảnh
hưởng đến sự thông minh, tính kiên trì nhẫn nại cùng ý chí học hỏi nơi ông lớn
lao ra sao. Nhưng điều đáng phục nơi ông là khả năng “tri hành hợp nhất” mà ông
đã thi thố với đời, đem kiến thức khoa bảng vào việc xây dựng cho đất nước Việt
Nam. Chương 5, kể chuyện tác giả về dạy ở trường Luật Hà Nội năm 1951 là một
chương đầy thú vị, cho thấy sự “quật khởi” của một trí thức trẻ Việt Nam trước
tinh thần thực dân của những ông khoa bảng Pháp. Tác giả, với học vị, với tinh
thần sòng phẳng trong Thỏa Hiệp Văn Hóa mới ký kết giữa Pháp và Việt Nam, đã
cứng cỏi dẹp tan những lấn lướt cố hữu của người Pháp, từ việc giữ vững vị trí
Giám Đốc trường Luật Hà Nội của mình đến việc tranh đấu về lương bổng bình đẳng
giữa giáo sư người Pháp và người Việt.
Về sau, trong những năm đầu đầy khó khăn
của chính quyền Ngô Đình Diệm ông đã thành công trong công tác thảo luận rất
gay go với Pháp và hai nước Cam Bốt và Lào để giải tỏa các định chế cũ trong
gần một thế kỷ cai trị của người Pháp ở Đông Dương, để thiết lập Viện Phát Hành
tiền tệ, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, Viện Hối Đoái cho Việt Nam. Hình ảnh của
ông đúng là một con người “kinh bang tế thế” mà chúng ta vẫn nghe thấy trong
văn chương, và ông hoàn toàn xứng đáng với lời của TT Ngô Đình Diệm ngợi khen
ông là một người “thao lược”, sau khi ông thành công trong công tác khó khăn
này.
Sau tháng 4, 1975, tác giả đã trải qua
những ngày bất an, thậm chí có thời gian ngắn bị bắt giam vì dự tính vượt biên.
Cộng sản tiếp thu trường Luật, và trường Luật bị đổi thành trường Kinh tế. Chế
độ toàn trị không cần tinh thần luật pháp cho xã hội, vì tinh thần ấy dựa trên
những ý niệm căn bản về con người như chủ quyền cá nhân, sự bình đẳng, công
bằng v.v... Những nguyên lý có tính vĩnh cữu như thế đã tạo ra những đạo luật
tồn tại hàng thế kỷ trước đây, nay hoàn toàn không có giá trị đối với đảng cộng
sản. Luật của họ dựa trên những nguyên lý khác, chỉ do đảng đặt ra, họ chỉ cần
đào tạo một lớp người để thi hành và giữ gìn luật của riêng họ, không cần có
một trường luật với môn luật học dựa trên những đặc tính bền vững của con người
và xã hội con người. Hai mươi năm trước giáo sư Nguyễn Mạnh Tường ở miền Bắc đã
nhân danh luật pháp lên tiếng về việc đấu tố trong cải cách ruộng đất, đã bị
đảng triệt hạ, trừng phạt một cách thê thảm. Và nay, khi cộng sản tiếp thu
trường Luật ở Sài Gòn, việc đầu tiên là họ cho nghỉ việc bốn giáo sư, trong đó
có giáo sư Vũ Quốc Thúc.
Tuy nghỉ việc nhưng vẫn phải theo Khóa
Nghiên cứu lý luận Mác Lê nin, và trong khóa này giáo sư Vũ Quốc Thúc đã một
lần đụng độ về lý luận với một giảng viên từ ngoài Bắc vào, một hành động thời
đó được coi là dũng cảm không ai dám làm, được nhiều người trong giới xem là
“bảo vệ danh dự của trí thức miền Nam”. Kể lại chuyện này, tác giả cũng ý thức
được sự nguy hiểm khi để lộ ra bất cứ sự bất đồng ý kiến nào với một chế độ độc
tài, và biết rằng để sống yên trong một chế độ như thế, con người phải nghĩ một
đằng nhưng nói một nẻo.
Phải nhận rằng tác giả có một số mạng
rất may mắn. Dù là phải trải qua đủ thứ chế độ trên đất nước Việt Nam, mà sau hết
là chế độ cộng sản đầy tệ hại, nhưng cuối cùng ông cũng thoát ra để tới được
nơi an toàn. Chỉ ba năm sau 1975 ông đã được cùng gia đình xuất cảnh sang Pháp,
do lời thỉnh cầu của chính Thủ tướng Pháp thời đó với ông Phạm Văn Đồng khi ông
này sang thăm nước Pháp với tư cách là Thủ tướng Việt Nam. Qua đến Pháp giáo sư
Vũ Quốc Thúc đã được bổ nhiệm dạy môn Kinh tế ngay tại đại học Paris 12, làm đúng nghề sở trường của mình, không phải
vất vả tìm kiếm việc làm khác. Qua thập niên 1980 ông lại bắt tay vào một số
hoạt động để bênh vực cho thuyền nhân, và đặc biệt là cuộc vận động để vãn hồi
Hiệp định Paris ký năm 1973, trong đó có sự tham gia của cựu Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu và nhiều nhân vật của Việt Nam Cộng Hòa. Năm 2000 ông tham gia việc
công bố Hiến chương 2000 tại Paris. Và những trang chót của cuốn sách này ông
đã dành để nói về việc vận động cho Việt Nam được hưởng quy chế Trung lập theo
quốc tế công pháp. Tác giả Vũ Quốc Thúc kết thúc cuốn sách vào tháng 6 năm
2010, khi ở tuổi 90.
Như tác giả đã cho biết từ đầu, gia đình
ông chỉ thờ cúng ông bà chứ không theo tôn giáo nào. Lúc trẻ, khi đứng trước
trước các khó khăn bất trắc, có khi ông đi coi bói. Ông đã kể lần đi coi bói tại Paris (và sau đó nhiều lần
coi bói khác nữa) khi ông sang dự kỳ thi Thạc sĩ vào năm 1952, một bà đầm già
tám mươi tuổi đã nhìn vào một quả cầu thủy tinh và mô tả cho ông những hình ảnh
bà đã thấy trong quả cầu ấy. Bà ấy không khẳng định ông thi đậu hay rớt mà chỉ
cho thấy hình ảnh của một buổi tiếp tân vui vẻ vào sau lễ Giáng Sinh năm ấy.
Kết quả là ông đã thi đậu thạc sĩ và khi về đến Sài Gòn ông khoa trưởng trường
Luật Khérian đã mở một buổi tiếp tân để chào mừng ông vào ngày đầu năm 1953,
đúng như hình ảnh bà đầm mô tả. Ông đã trải qua nhiều trường hợp linh nghiệm
trong bói toán, và ông suy ra rằng “quả thật trong đời có những yếu tố siêu
hình chúng ta không thể xét đoán với con mắt trần tục (...) tuy nhiên có người
nhìn được, Trời ban cho họ khả năng nhìn thấy những cái đó.”
Khuynh hướng dựa vào yếu tố siêu hình về
sau đã trở nên mạnh hơn nơi tác giả khi nghịch cảnh trở nên quá nặng nề trong
giai đoạn sống với cộng sản sau 1975: ông đã gần như dựa hẳn vào tôn giáo.
Nhưng đó chưa phải là tín ngưỡng đích thực, mà chỉ là sự tìm kiếm, cầu xin một
lối thoát giữa hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống: “Hằng ngày mặc dù không phải
tín đồ Thiên Chúa Giáo, tôi đã đến nhà thờ Đức Bà. Tôi cầu nguyện trước tượng
Đức Mẹ xin Đức Mẹ run rủi cho gia đình tôi được thoát khỏi Việt Nam toàn vẹn.”
Một lần nữa, tác giả lại “cầu được ước thấy”, rốt cuộc ông và gia đình đã được
đi tị nạn bên Pháp. Từ việc tin vào bói toán, đến cầu xin một hình tượng tôn
giáo để nhất thời tìm giải pháp cho những khó khăn của mình, những việc ấy
chứng tỏ nơi tác giả có một tiềm năng tín ngưỡng, nhưng chỉ phát lộ ra dần dần
từ thấp đến cao qua những lần dựa vào đó để mong tìm lối thoát cho những bế tắc
cụ thể trong đời.
*
Cuốn hồi ký này đã cống hiến cho chúng
ta hình ảnh một nhà trí thức luôn luôn tích cực với đất nước. Giáo sư Vũ Quốc
Thúc là người học rộng, khoa bảng cao, điều đó ai cũng biết, nhưng ông xứng
đáng với danh xưng là Trí Thức vì lúc nào ông cũng vận dụng hiểu biết của ông
để làm những điều ích lợi cho quốc gia, lúc nào ông cũng dấn thân hết mình vào
từng giai đoạn cụ thể của thời đại ông, không những đáp ứng những nhu cầu cấp
thiết của thời điểm đó, mà còn có khả năng nhìn vượt thời đại của mình để mưu
cầu sự tốt đẹp cho một Việt Nam trong tương lai. Viết kể lại những hoạt động
của đời ông là một việc cần thiết mà ông nên làm và đã làm, nhưng mặt khác, đọc
kỹ những gì ông viết lại là điều cần thiết hơn đối với chúng ta hôm nay và cả
con cháu của chúng ta mai sau nữa.
PXĐ
tháng
11, 2010