Tác giả xin cám ơn Giáo sư Trần Huy Bích đã giúp nhiều tài liệu cần thiết cho bài viết này.
|
Hình
minh họa Chinh Phụ Ngâm do tác giả, nhà
văn Trùng Dương cung cấp. |
Gần đây tôi có dịp xem video của Thúy Nga Paris
trình diễn ba bài Hòn Vọng Phu 1, 2 và 3 của Lê Thương. Sự dàn dựng cảnh trí,
các màn phụ diễn đều công phu, tạo nên một không khí chinh chiến ngày xưa, và
nhất là giọng hát của các ca sĩ đều hay, diễn tả thành công chủ đề mà mình
trình diễn.
Tiếc thay trong bài Hòn Vọng Phu 1, lời hát có sai một chữ, nhưng chữ đó lại rất quan trọng, làm biến đổi cả không khí của bài hát mà nhạc sĩ Lê Thương đã cố công dựng nên khi sáng tác Hòn Vọng Phu. Đó là câu nguyên văn của tác giả :
Vui ca xang rồi đi tiến binh ngoài ngàn
đã được ca sĩ Thế Sơn hát là :
Vui ca xong rồi đi tiến binh ngoài ngàn
Thật là một sai lầm đáng tiếc.
Chúng ta đều biết Lê Thương thuộc vào hàng nhạc sĩ kỳ cựu của nền tân nhạc Việt Nam, đã bắt đầu sáng tác từ những năm cuối của thập niên 1930 những ca khúc như Bản Đàn Xuân, Thu Trên Đảo Kinh Châu…, và từ đó tiếp tục sáng tác và để lại cho đời một di sản âm nhạc to lớn sau khi ông từ trần năm 1996 tại Sài Gòn, thọ 82 tuổi.
Riêng liên khúc Hòn Vọng Phu 1, 2 và 3 sáng tác trong thập niên 1940 là một tác phẩm rất quan trọng của ông, chất chứa mênh mang âm hưởng và tình cảm dân tộc, được xem như một trường ca đầu tiên của Việt Nam. Có thể nói không ngoa rằng nhạc điệu lẫn lời ca của liên khúc Hòn Vọng Phu đã thấm nhuần trong tình cảm người Việt Nam một cách rộng rãi và sâu xa nhất, có lẽ trong lịch sử của nền tân nhạc chưa dài lắm của đất nước chúng ta chưa có tác phẩm nào đạt được vị trí ấy.
Được xem là “trường ca” trong nền âm nhạc Việt Nam cho tới ngày nay không nhiều. Xưa nhất là Hòn Vọng Phu gồm ba bài trong dạng chuyện kể, mà bài Hòn Vọng Phu 1 đã được sáng tác năm 1943, các bài 2 và 3 cũng được hoàn tất sau đó mấy năm trong thập niên 1940.
Tiếp theo là bài Trường Ca Sông Lô của Văn Cao sáng tác năm 1947, ca ngợi một chiến công trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Khoảng giữa thập niên 1950 xuất hiện một trường ca cũng trong dạng ba ca khúc nối tiếp nhau, đó là Hội Trùng Dương của Phạm Đình Chương, viết về ba con sông Hồng, sông Hương và sông Cửu Long như là hình tượng thống nhất của nước Việt Nam.
Rồi mãi đến đầu thập niên 1960 trường ca Con Đường Cái Quan, và giữa thập niên 1960, trường ca Mẹ Việt Nam của Phạm Duy mới ra đời.
Đó là những trường ca đúng nghĩa, có giá trị nghệ thuật cao, đứng vững với thời gian cho đến nay. Nhưng nếu có ai đặt câu hỏi : trong các bài trường ca ấy, bài nào được người dân hát nhiều nhất, nhớ nhiều nhất, phổ biến trong dân chúng rộng rãi nhất, thì câu trả lời sẽ là : Hòn Vọng Phu, trong đó Hòn Vọng Phu 1 thấm nhuần trong dân chúng sâu đậm nhất.
Vì sao nhạc sĩ Lê Thương đặt tên tác phẩm của mình là Hòn Vọng Phu ? Vì ở tỉnh Lạng Sơn giáp giới với nước Tàu có một quả núi trên đó sừng sững một hòn đá lớn có hình thù trông giống như một người đàn bà đang ôm đứa con, đứng nhìn ra phía xa như đang mong đợi một ai đó. Dân gian Việt Nam đặt tên bức tượng do thiên nhiên tạo ra ấy là Hòn Vọng Phu, tức là hòn đá có hình người đàn bà ôm con trông chờ chồng về. Có lẽ cảm xúc vì lối đặt tên đó của dân gian hàm ý lịch sử đất nước chúng ta có nhiều chinh chiến --với người Trung Hoa phía Bắc suốt một chiều dài của lịch sử lúc nào cũng muốn chiếm nước ta để sáp nhập vào nước Tàu. Cái tâm thức “chờ chồng về” từ chiến trận của người phụ nữ Việt Nam có lẽ vẫn tiềm tàng trong tâm hồn dân tộc như một đặc tính do hoàn cảnh lịch sử mang lại, khiến cho khi thấy một hòn đá trên núi giống hình người mẹ ôm con thì dân chúng đặt ngay tên là Hòn Vọng Phu –Hòn Chờ Chồng. Đó là một cách nhìn thiên nhiên mà cảm ứng với tâm trạng dài dằng dặc của dân một xứ nhiều giặc giã, thật là ý nghĩa và cảm động.
Nhạc sĩ Lê Thương, một nhạc sĩ thuộc thế hệ theo tân nhạc đầu tiên của Việt Nam, chỉ nhìn hòn đá đó mà hòa nhập với một cảm thức rộng lớn của dân tộc qua suốt một lịch sử lâu dài : lịch sử của các cuộc chiến không ngừng để giữ nước, mà hòn đá chờ chồng là một tiêu biểu đầy cảm động trên một mặt khác của chiến tranh. Ông đã sáng tác ba bài Hòn Vọng Phu để nói về hào khí của cuộc xuất quân, về nỗi nhớ mong của người vợ có chồng đi chinh chiến, cho đến ngày về của người chinh phu. Điểm đặc sắc của ba hòn vọng phu là đều mang đầy âm hưởng cổ kính của dân tộc, về nhạc cũng như về lời. Trải qua nhiều năm tháng, trải qua nhiều thế hệ, trường ca Hòn Vọng Phu vẫn được trình diễn và được thưởng ngoạn như một tác phẩm hàng đầu của dân tộc.
Đến đây người viết xin phép được mở một dấu ngoặc để lạm bàn về một cách diễn đạt khác về người chờ chồng Tô Thị. Ngoài Lê Thương, hình tượng vọng phu còn được nhạc sĩ Phạm Duy nhắc đến trong trường ca Con Đường Cái Quan của ông. Không khác Lê Thương, Phạm Duy cũng cảm nhận cái truyền thuyết vọng phu bàng bạc trong đời sống tinh thần và tình cảm của dân tộc Việt Nam, và nhìn nó gần như là một tín ngưỡng trong tâm thức của dân gian : thờ phượng sự sắt son chờ đợi và sự hóa đá của người đàn bà chờ chồng. Trong hành trình từ Bắc vào Nam, ngay đoạn đầu người lữ khách Phạm Duy đã hát
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị đứng chờ đợi ai
Và khuyên người chẳng tái hồi
Cho ngàn năm được sống đời… vọng phu !
Phạm Duy đã biến sự chờ đợi gần như một tín ngưỡng, người đứng chờ mong cho người mình thương yêu đừng về, để cho nàng… hóa đá thì nàng mới có thể đứng mãi ngàn năm mà chờ. Đúng là Phạm Duy đã nâng sự chờ đợi thành một thách đố của lòng kiên gan, như một phép tu để cô kết thể xác và tinh thần biến thành một trạng thái cứng rắn vĩnh viễn : hóa đá. Đá như một kết quả tu chứng của đạo… chờ chồng! (xin đóng ngoặc).
Quay lại với Hòn Vọng Phu của Lê Thương, chúng ta có bổn phận phải gìn giữ sự nguyên vẹn của tác phẩm này như một viên ngọc quý, đừng để thời gian và sự thiếu ý thức gây nên những vết trầy xước đáng tiếc.
Bài viết này hôm nay xin đề cập đến một chữ trong bài Hòn Vọng Phu 1 có khi bị hát sai, đó là chữ ca xang trong câu Vui ca xang rồi đi tiến binh ngoài ngàn. Trước khi đi vào việc phân tích và tìm hiểu chữ, nghĩa, chúng tôi mời độc giả xem kỹ lời bài Hòn Vọng Phu 1 trong bản nhạc xuất bản năm 1955, do chính tác giả Lê Thương giữ bản quyền.
Câu “Vui ca xang rồi đi tiến binh ngoài ngàn” đã được in trong bản này. Các bản Hòn Vọng Phu 1 khác được tái bản ở miền Nam trước 1975 cũng đều giống như bản này, về nhạc cũng như về lời. Vậy chúng ta có thể xem đây là bản gốc, in lần thứ nhất, do chính tác giả chủ trương xuất bản và giữ bản quyền.
Khảo sát một số mục trình diễn Hòn Vọng Phu 1 trong thời gian trước 1975 cho đến nay, chúng tôi ghi nhận hầu hết hát đúng hai chữ “ca xang” : Tiếng hát Thái Thanh trước 1975; ban hợp xướng Ngàn Khơi tại California; đĩa nhạc của Asia với Hoàng Oanh, Thanh Lan, Duy Quang; Album Tuyển chọn Duy Khánh; ca sĩ Đức Tuấn (trong nước); một ca đoàn của người Pháp trình diễn tại Pháp v.v… Một vài nơi hát “ca xong” như Thúy Nga Paris, hoặc “ca vang” như tôi có bắt gặp đâu đó, nhưng tương đối hiếm hoi.
Chúng tôi nghĩ sở dĩ có trường hợp hát sai đáng tiếc như thế, là do người hát không hiểu nghĩa chữ “ca xang” là gì, cho là do bản nhạc in sai, và mình có nhiệm vụ tìm chữ đúng để hát. Từ “ca xang” đổi sang “ca xong”, được lắm, dễ hiểu hơn nhiều, nhất là nó có thể gợi ý có một “party” ca nhạc với nhiều ca nhi để tiễn vị tướng lên đường, và khi phần ca nhạc vừa chấm dứt (ca xong) là cuộc xuất quân bắt đầu... Hoặc đổi thành “ca vang”, một cách nói rất quen thuộc để tả tiếng hát to một cách mạnh mẽ. Chứ xang là cái gì nghe lạ hoắc, hát lên nghe cũng chướng tai, ngượng miệng !
Nhưng thiết nghĩ thái độ chung của người trình diễn là phải tôn trọng nguyên tác của tác giả, nếu có gì không hiểu thì nên tìm hiểu chứ không nên tự đặt lời khác để hát theo ý mình. Đây là một tệ nạn cần phải tránh, nhất là đối với những tác phẩm đã thành cổ điển.
Riêng đối với những ai hiểu chữ “ca xang” thì thấy câu hát ấy thật hay, vì vang lên một âm hưởng rất cổ kính, giữa khung cảnh xuất quân của một võ tướng ngày xưa. Vậy “ca xang” là gì ?
Chúng ta cùng đi tìm chữ ấy trong sách vở cũ.
Từ "xang" có trong tiếng Việt từ rất lâu, và được ghi trong tất cả những tự điển tiếng Việt có danh tiếng từ thế kỷ 17 tới nay:
1) Tự điển Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) của Alexandre de Rhodes (1651):
Xang: agitate corpus ambulando (vừa đi vừa lắc thân thể)
2) Tự điển Việt-Latin (Dictionarium Anamitico-Latinum) của GM. Taberd (1838):
Xang: manum altè extollere (nâng tay lên cao)
3) Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của (1895-96):
Xang: giang tay, đưa tay lên, múa men.
4) Tự điển Việt-Pháp (Dictionnaire annamite-français) của Jean Bonet (1900):
Xang: lever les bras, gesticuler, jouer, danser (nâng tay lên cao, làm cử chỉ, chơi đùa, nhảy múa)
5) Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (1931):
Xang: giang tay, giơ tay lên.
6) Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức & Lê Ngọc Trụ (1970-71):
Xang: giang tay, múa men.
7) Tự Điển Tiếng Việt của Viện Ngôn Ngữ Học (Hoàng Phê chủ biên, 2003):
Xang: đưa qua đưa lại (“chân xang qua xang lại”).
Tuy có một số tiểu tiết khác biệt nhỏ qua các thời, từ “xang” cho ta một ý niệm động: nâng tay lên cao, giang tay, múa men.
Một điều ai cũng nhận thấy, là khi sáng tác Hòn Vọng Phu 1, Lê Thương đã chịu ảnh hưởng rất nhiều của tác phẩm Chinh Phụ Ngâm, nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn, do Đoàn Thị Điểm dịch sang thơ Việt. Riêng câu hát “Vui ca xang rồi đi tiến binh ngoài ngàn” cũng có thể tìm thấy dấu vết từ Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm qua Chinh Phụ Ngâm.
Nguyên câu chữ Hán trong Chinh Phụ Ngâm :
Trịch ly bôi hề, vũ Long tuyền
(Quăng chén rượu tiễn, múa kiếm Long tuyền)
Câu ấy được dịch là:
Múa gươm rượu tiễn chưa tàn
Cuối buổi tiệc tiễn hành, người tráng sĩ ra đi ném chén rượu, cầm gươm lên múa.
Những hình ảnh “quăng chén rượu tiễn, múa gươm” đã thành những hình ảnh ước lệ để diễn tả sự hăng hái của kẻ ra đi.
Vào thế kỷ 19, Tôn Thọ Tường, một viên quan văn, nhưng khi được chọn sang Pháp dù chỉ để làm nhiệm vụ thông dịch, cũng hăng hái viết:
Múa gươm, quăng chén, cất mình đi
Bịn rịn đâu màng thói nữ nhi.
Sau câu:
Qua Thiên San kìa ai tiễn rượu vừa tàn
Lê Thương cho biết người chinh phu đã “vui ca xang” trước khi “tiến binh ngoài ngàn.” Ông muốn nói chàng đã ca hát và múa (có thể là múa gươm, có thể chỉ là múa chân tay không). Đó là những hình ảnh đã thành ước lệ để chỉ sự hăng hái của kẻ ra đi.
Nếu đổi “vui ca xang” thành “vui ca vang” hay “vui ca xong,” chúng ta sẽ vô tình làm mất đi cái hình ảnh hào hùng đã thành ước lệ ấy.
Đến đây thiết tưởng chúng tôi cũng đã tạm làm xong công việc bênh vực cho một chữ bị hát sai. Một góp ý rất nhỏ, nhưng mong rằng cũng góp phần để giữ gìn sự nguyên vẹn cho một tác phẩm giá trị của văn hóa Việt Nam.
Little Saigon ngày 29 tháng 12 năm 2021
Phạm Xuân Đài
Xin chúc các bạn cùng gia đình sức khỏe và an
vui ...
Bài của PP Minh hay quá... Món quà bất ngờ, rất quí. Xin
cảm ơn bạn...
Q T..
(Quyên và ĐQ Toàn Dec 31, 21)
Share trên Facebook
Hay quá, bác Minh! Cháu mới share trên facebook
của cháu!
Chúc mừng năm mới đến với hai bác và đại gia đình!
ysa (31 Dec 21)
Hạo-Nhiên cũng mới share trên Facebook của ảnh. :)
Ysa Le (31 Dec 21)
Hay và đúng
Rất hay và rất đúng, Nga vẫn nhớ lời hát là "vui ca xang" nhưng không nghe TS hát nên không biết là có nhiều người đã hát sai. Hôm này đọc bài anh viết, có minh chứng và trích dẫn từ các tự điển khác nhau, giúp mình hiểu thêm nhiều ý nghĩa của chữ "xang". Rất hay và gợi hình. Cuộc tiệc tiễn đưa này là để hâm nóng máu anh hùng nên phải có múa may cho ấm phải không anh ? Cảm ơn anh.
Tôn Nữ Thu Nga (Jan 1, 22)
Đọc
rất thú vị
Minh thân mến, cám ơn Minh đã gởi bài Hòn vọng
Phu, bài viết hay, đọc rất thú vị. Thú vị là vì Hòn Vọng Phu thì biết và nghe
nói nhiều lâu rồi nhưng không sâu sắc đầy đủ như bài của Minh.
Hoàng Huề, Việt Nam (trích email ngày 1- 1-
2022)
Đúng và
cần thiết
Bài viết công phu, có khảo cứu cẩn thận và rất hay.
Tôi và Xuân Vinh luôn cùng một ý với nhau là bộ ba
HÒN VỌNG PHU là một MASTERPIECE, là một viên ngọc
quí không có tỳ vết của âm nhạc Việt Nam.
Việc làm bảo vệ văn học nghệ thuật của ông là đúng và cần thiết.
Tôn trọng và giữ gìn nguyên tác là bổn phận của mọi người.
Chúc ông bà năm mới được khỏe mạnh và bình yên.
Nguyễn Mạnh.
(Jan 1, 22)
Khai bút năm 2022
Thưa Bác,
Gia đình con kính chúc
hai Bác năm mới bình an, nhiều sức khỏe.
Bài viết khai bút năm
2022 của Bác cho thấy bút lực và chất nghiên cứu vẫn rất dồi dào, thú vị.
Đúng là câu "vui
ca xang" trong Hòn Vọng Phu con vẫn hát đúng từ lúc còn thiếu niên, nhưng
chỉ không biết "ca xang" có nghĩa gì thôi! Việc tùy tiện đổi lời bài
hát, nhất là những bài cổ điển sẽ làm mất đi giá trị không chỉ của tác phẩm mà
còn của cả người thể hiện nữa.
Phạm Phú Cường – Sài Gòn Jan 2, 22
Việt
Nam không mở được DĐTK
Anh Minh ơi,
Ngày đầu năm, em vui quá chừng, được theo anh Minh và anh Song
Thao trên "bảng vàng" của DĐTK.
Đọc bài "Vui Ca Xang", em được thấy, được nghe thêm
những điều lý thú, quý giá. Em chuyển tiếp cho bạn bè. Nhưng bạn bè em ở Việt
Nam không mở được link của DĐTK. Em có nhận bài này qua email, nhưng lại không
có hình minh họa cũng như không có những chữ in nghiêng, in đậm. Em tiếc ghê,
những bài giá trị mà không chia sẻ trọn vẹn cho mấy người bạn lòng được.
Em nghe nói ở California năm nay khá lạnh. Bên Đức mấy hôm nay lại ấm.
Mong anh luôn vui khỏe.
Ngọc Thúy (Germany Jan 3, 22)
Một đề tài bất ngờ
Anh Minh quý mến,
Rất vui được tin anh. Trước hết
tôi cũng xin chúc anh và gia đình sang Năm Mới được nhiều sức khỏe,
vạn sự an lành.
Sau là cám ơn
anh đã cho tôi đọc bài Vui Ca Xang, một đề tài
bất ngờ gây nhiều thích thú. Một đề tài mà anh đã khai thác tận cùng,
nghiên cứu tỉ mỉ và trình bày hấp dẫn.
Tôi học được của anh
vài điều lý thú, chẳng hạn hòn đá Vọng phu ở tại Lạng Sơn, điều
mà tôi không biết. Đọc anh bỗng nhiên trong đầu tôi vang lên những
bản nhạc của Lê Thương mà khi nhỏ tôi thường hát nghêu ngao, tôi nghĩ rằng Lê
Thương là người Nam vì qua nhạc của ông mình nghe được giọng Nam.
Đôi điều chia sẻ với anh. Mong
thỉnh thoảng được tin anh.
Liễu
(Trương Thị
Liễu, Paris Jan 4, 22)
Tự định nghĩa lấy
Vâng đúng là bài của Đông Kha không làm người đọc thỏa mãn lắm
vì không trưng dẫn được chứng liệu nào thuyết phục. Việc tra cứu, tìm hiểu cũng
chưa tới nơi tới chốn như bài của anh Minh. Ngay cách định nghĩa chữ
"xang" của ông (hân hoan, cao, thượng) cũng là ông... tự định nghĩa lấy.
Lê Hữu (Jan 8, 22)
Bạn bè ở
Việt Nam
Anh Minh ơi,
Những người, cũng như em, trước đây nghe "vui ca
xang" nhưng không hiểu rõ, giờ rất vui, hiểu được, tấm tắc hoài.
Em chuyển vài "thư phản hồi" của bạn bè ở Việt
Nam sau khi đọc "Vui Ca Xang".
"Bài viết hay quá cho mình thêm kiến thức. Hồi xưa ba chị rất thích bài hát này mở băng nghe và hát theo chứ không có bài nhạc chính gốc chừ mới biết rất thú vị."
"Hay lắm em. Mình chẳng phải chuyên gia phê bình âm nhạc, nhưng thật sự rất bực bội khó chịu khi nghe ca sĩ hát sai lời (tưởng là việc nhỏ nhưng nhiều khi làm sai ý hoặc giảm hẳn giá trị của một vài câu, từ rất "đắt" của tác giả. Chẳng hạn " Mắt xanh lả bóng dừa hoang dại" (Mộng dưới hoa) bị hát thành "...là bóng...), từ lả tuyệt vời như vậy! Hoặc "thấu chăng lòng khách bơ vơ" (Hướng về Hà Nôi) bị hát thành "thấy chăng..." thiệt nghe mà tức cái bụng..."
"Hy vọng các ca sĩ đọc được bài viết của tác giả Phạm Xuân Đài để có sự tìm hiểu kỹ về ca từ cũng như giai điệu của một nhạc phẩm mình sắp thể hiện. T nghĩ không những ca sĩ mà cả ban nhạc đều phải có trách nhiệm tìm hiểu chứ sao lại để ca sĩ hát sai từ làm giảm giá trị của bản nhạc như vậy ..."
Ngọc Thúy (Germany) Jan 9, 22
Cảm ơn bác
Mới đây, tôi được một người bạn
forward cho đọc một bài viết của bác về "Vui ca xang" trong trường ca
Hòn Vọng Phu của Lê Thương. Bác viết rất hay. Đọc thú vị. Cảm ơn bác.
Nguyễn Tuyển (Jan 10, 22)
Vài suy
nghĩ khi đọc “ VUI CA XANG”
của tác
giả Phạm Xuân Đài.
Để giải thích cho một chữ - mà ca sĩ
Thế Sơn hát sai trong video của Thuý Nga
Paris – ông Phạm Xuân Đài đã viết một bài khá công phu, với
những dẫn chứng về tác giả, về sự ra đời của tác phẩm, cho đến vì sao
nhạc sĩ Lê Thương chọn tên Hòn Vọng Phu, một cái tên mang đậm nét lịch
sử đầy hào khí của dân tộc Việt Nam, đặt cho tác phẩm của mình.
Trước hết tác giả xác định rõ vị trí của Hòn Vọng Phu
1, 2, 3 của nhạc sĩ Lê Thương là một nhạc phẩm có giá trị nghệ thuật
cao, đã tồn tại bền vững với thời gian, là một bản trường ca đầu tiên hào hùng
mang đậm tình cảm dân tộc, được phổ biến rộng rãi trong dân gian. Có thể nói
cho đến nay, chưa có tác phẩm nào thay thế được. (Tuy là có Sông Lô của
nhạc sĩ Văn Cao; Có Hội Trùng Dương của nhạc sĩ Phạm Đình Chương đó ).
Kế đến, tác giả dẫn chứng 1 bản gốc của tác phẩm do
chính nhạc sĩ cho xuất bản trước 1975.
Rồi tác giả trích dẫn khá nhiều từ điển đã giải thích
nguyên nghĩa chữ “ XANG “ – một hình ảnh ước lệ thể hiện sự hăng
hái lên đường tòng quân của người chinh phu.
Cái hay của bài là tác giả giải thích với những chứng cứ đầy
thuyết phục, đã dần đưa độc giả từ từ hiểu rõ, hiểu sâu, hiểu đúng câu chữ
trong bài Hòn Vọng Phu 1 là “ vui ca xang “ chứ không phải là “vui ca xong” hay
“vui ca vang”.
Thưởng thức mà ta cảm nhận sự lịch sự quá đẹp của tác
giả khi phê phán về cái sai, về sự thiếu sót… cũng hết sức cẩn trọng,
nhẹ nhàng và chân tình. ( Không quá bút phê làm bẽ mặt ai đó…).
Có thể nói, Phạm Xuân Đài là ngòi bút có tâm và có tầm.
Ông đã không quản ngại tốn kém thời gian, sưu tầm tài
liệu để làm sáng tỏ, dù đó chỉ là một chữ: XANG !
Với tấm lòng yêu quê hương, mục đích của tác giả không
ngoài là gìn giữ, bảo tồn sự nguyên vẹn cho một bản trường ca hết sức giá
trị của nền văn hoá Việt Nam./.
Kare Kim
( Jan, 12th 2022 )