Sunday, February 21, 2016

Đọc “BÊN GIÒNG SÔNG HẰNG” của ENDO SHUSAKU (Viễn Đằng Chu Tác)


Về chủ đề đạo Công giáo trong xã hội Nhật Bản hay một Tâm-Thức-Mới cho thời đại

Nguyên tác cuốn sách này trong Nhật ngữ là “Thâm Hà” (Sông Sâu). Trong ngôn ngữ Hán Việt, và chắc trong Nhật ngữ cũng thế, hai chữ thâm hà gợi một cảm tưởng mênh mông và sâu thẳm. Nguyễn Văn Thực dịch là “Bên Giòng Sông Hằng” cũng đã rất khéo để nói lên nội dung câu chuyện một nhóm du khách Nhật Bản đến thăm sông Hằng bên Ấn Độ, nhưng chính người dịch cũng nhận thấy chữ “thâm hà” mới diễn tả được cái chủ đề đích thực về tâm linh rất lớn của tác giả trong cuốn tiểu thuyết này.


 Viễn Đằng Chu Tác (1923-1996) là một trong những nhà văn Nhật Bản được độc giả Nhật và Tây phương biết đến và yêu mến còn hơn cả Kenzaburo Oe, nhà văn Nhật đoạt giả Nobel văn chương năm 1994. Là một người theo đạo Chúa, đề tài lớn theo đuổi suốt sự nghiệp sáng tác của ông là sự khó khăn của Kitô giáo trong tiến trình hội nhập vào tâm thức Nhật Bản. Đề tài này manh nha từ những cuốn Người Da Trắng - Shiroi HitoNgười Da Vàng - Kìroi Hito (viết trong thập niên 50); nhưng phải đến cuốn Sao Chúa Mãi Im (Trầm Mặc) - Chin Muku, viết năm 1966, đề tài này mới được khai thác một cách mãnh liệt và được xem là khá “bạo.” Chúng ta hãy lược qua tác phẩm này, trước khi đề cập đến hậu thân lớn lao và sâu sắc của nó là cuốn Bên Giòng Sông Hằng.

Viễn Đằng Chu Tác đã nghiên cứu nhiều sử liệu truyền giáo của giáo hội La Mã vào thế kỷ 16 và 17 trên đất Nhật để viết nên cuốn tiểu thuyết Sao Chúa Mãi Im (cũng đã được Nguyễn Văn Thực dịch sang Việt ngữ, Anh Em ở Na Uy xuất bản năm 1998), cuốn sách mà Graham Green đã phát biểu sau khi đọc xong: “Theo tôi tác phẩm này là một trong những tác phẩm hay nhất thời đại chúng ta.”

Truyện thuật hai sự quyết tâm: các giáo sĩ Thiên Chúa giáo trong thế kỷ 17 quyết tâm xâm nhập Nhật Bản để truyền đạo, và nhà cầm
quyền Nhật Bản quyết tâm ngăn chặn và bóp nát ý định đó. “Sao Chúa Mãi Im” là câu tán thán của vị giáo sĩ trong cơn bách hại, đối diện với bao nỗi khốn khó đau đớn trong cô đơn. Thiên Chúa giáo bắt đầu được truyền vào đất Nhật từ giữa thế kỷ 16, lúc đầu gặp nhiều thuận lợi vì các tướng quân đều muốn o bế các thương thuyền Bồ Đào Nha, và do đó thân thiện với các vị thừa sai, để đem lại lợi nhuận cho mình. Theo tài liệu các thừa sai viết đầu thế kỷ 17 thì con số giáo dân lúc cao nhất lên đến 250,000 người. Tuy nhiên, trong tiền bán thế kỷ 17, các tướng quân bắt đầu cấm đạo, vì những lý do, ví dụ theo sắc lệnh của tướng quân Gia Khang: ...gieo rắc tà đạo, phỉ báng chính đạo, có âm mưu chống lại phép nước và xâm chiếm lãnh thổ...

Bìa sau của cuốn Sao Chúa Mãi Im


Cuộc bách hại vô cùng tàn khốc và hiểm độc, đã khiến một số các thừa sai bỏ đạo, trong đó có linh mục giáo sư Ferreira, từng hoạt động ở Nhật trong hai mươi năm với chức Giám tỉnh dòng Tên ở đó, đại diện tối cao của dòng Tên, có nhiệm vụ cai quản các linh mục dưới quyền và chăn dắt các bổn đạo Nhật thời ấy. Ông bỏ đạo, lấy vợ người Nhật, có tên Nhật và sống luôn tại đất Nhật, một sự kiện mà giáo hội La Mã không tưởng tượng nổi.

Và vì thế mới có câu chuyện này. Vào năm 1635 ở La Mã một nhóm gồm năm linh mục tìm cách rửa hờn cho mối nhục bỏ đạo mà cha Ferreira đã gây nên, đã cùng nhau vạch một kế hoạch truyền giáo tại Nhật, ngay cả trong thời kỳ bách hại dữ dội nhất. Cuối cùng có ba giáo sĩ được cử thực hiện công tác này, cả ba đều là học trò cũ môn Thần học của cha Ferreira. Sau bao nhiêu khó khăn, hai trong ba người đã xâm nhập được vào đất Nhật, bắt liên lạc được với một họ đạo và được che dấu để hoạt động. Nhưng với sự kiểm soát dân chúng rất chặt chẽ của các sứ quân, cuối cùng tất cả, giáo dân cùng linh mục, đều bị bắt. Một vị đã phóng xuống biển chết theo các giáo dân bị nhận nước. Vị còn lại, sau bao ngày giam cầm, đấu tranh với bản thân và với các mưu mô của nhà cầm quyền để dẫn dụ việc bỏ đạo, cuối cùng cũng đã phải chịu thua, chấp nhận đạp lên ảnh Chúa. Và mọi chuyện lại được lặp lại: lấy vợ Nhật, đổi tên Nhật, thậm chí có cả pháp danh Phật giáo, cho đến khi chết lại được hỏa thiêu ở chùa.
Cực hình không hề khuất phục được các vị đó. Tổng đốc Tỉnh Thượng đã nghĩ ra một cách bắt các vị phải chịu thua: chứng kiến giáo dân của quý vị đang bị cực hình và hành hình. Một lý lẽ rất đơn giản được đưa ra: vì quý vị vào xứ này truyền đạo nên mới có giáo dân, và giáo dân phải bị trừng trị theo luật lệ. Nếu đạo của quý vị là bác ái, quý vị hãy hành xử để cứu những con người ấy: chỉ cần quý vị làm một cử chỉ bỏ đạo, các giáo dân sẽ được tự do. Vị linh mục buộc phải chọn lựa giữa con người cụ thể và những nhân danh trừu tượng, và giữa cơn giằng xé, phải thốt lên trong tâm tưởng: Nhưng con biết, Đức Chúa Trời mà Giáo hội dạy, khác với Đức Chúa Trời của con.

Sự đối đầu ghê gớm giữa nhà cầm quyền Nhật Bản và các nhà truyền giáo diễn ra âm thầm, khốc liệt, tài năng tiểu thuyết của tác giả Endo Shusaku đã tạo dựng lại, có lẽ dựa rất sát vào các tài liệu thu lượm được, những trang lịch sử bi tráng, lớn lao. Chính trị, đức tin, lòng tàn bạo hiểm độc, sự hy sinh vì lý tưởng cao cả đã đối chọi, cọ xát nhau, nhưng tia lửa bật ra, cao điểm của truyện, vẫn là sự thắng thế của tình yêu thương con người. Đó là cái thắng trong cái thua của những vị linh mục. Ngẫm ra không khác quan niệm của người Việt Nam:

Dù xây chín bực phù đồ
Không bằng làm phúc cứu cho một người

Có lẽ đó là tất cả ẩn ý của tác giả Endo Shusaku khi dựng lại sự đụng độ của hai sức mạnh thế quyền và thần quyền trên đất Nhật vào thế kỷ 17. Chỉ trong tình huống cực kỳ bi đát trong cuộc đời truyền giáo của mình, vị linh mục mới nhận thức ra được rằng bao nhiêu bực phù đồ của thần quyền cũng không thể bằng sự làm phúc cứu những con người thảm thương ra khỏi trận hành hình. Chính trong giây phút ấy vị linh mục cảm nhận sự thông cảm hoàn toàn với “một Đức Chúa Trời của riêng mình.”

Trong Sao Chúa Mãi Im, tác giả đã nhờ những trang lịch sử để đưa ra sự đụng chạm mãnh liệt giữa nước Nhật và giáo hội Thiên Chúa giáo. Đằng sau hai thế lực có tính cách “đời” ấy phải là hai sức mạnh khác, tiềm ẩn hơn, đã ám ảnh tác giả và đã làm thành chủ đề chính suốt cuộc đời sáng tác của ông. Đó là cái tinh túy của tinh thần Nhật Bản và tinh thần Thiên Chúa giáo, cả hai ông đều hiểu rõ với tư cách vừa một công dân Nhật mang trong mình truyền thống ngàn đời của đất nước, vừa là một người Công giáo. Có lẽ nhiều lần trong tâm hồn tác giả đã vang lên câu hỏi: Những cái tinh túy trong tinh thần của những nền văn hóa khác nhau trên quả đất này, rốt cuộc vẫn không khác gì nhau, thế thì tại sao trong lịch sử đã và đang diễn ra những bi kịch ghê gớm làm điêu đứng bao nhiêu con người? Những cái nhân danh nọ kia có đáng cho bao nhiêu điều bi thảm như thế xảy ra hay không? Đâu là mẫu số chung cho tâm hồn tất cả chúng ta, trong đó những loại đức tin khác nhau có thể hòa lẫn vào nhau như bao nhánh sông đều chảy vào một dòng sông cái?

Có lẽ Bên Giòng Sông Hằng đã được thành hình trong một khắc khoải như thế nơi Endo Shusaku. Ông đã đi chọn một hình ảnh đặc trưng về tâm linh là dòng sông Hằng của Ấn Độ để làm nơi hòa giải cho những xung đột nơi chính ông — hay là những nhân vật Nhật Bản của ông cũng thế —, coi dòng sông như một người trọng tài mà ông tin có đủ uy tín và đức độ để bao dung những khác biệt. Trong xứ Ấn Độ quê hương thăm thẳm của bao vấn đề tâm linh của nhân loại, dòng sông Hằng là một tượng trưng chứa đựng trong lòng nó những sạch và dơ, đau khổ và giải thoát, đã được nhiều người mệnh danh là dòng sông thiêng có khả năng làm êm dịu đi, nếu không nói là giải quyết, những khắc khoải của kiếp người. Nhiều cây bút trên thế giới đã tìm nó, viện dẫn nó, kể cả những nhà thơ Việt Nam.

Đón em suốt bãi sông Hằng
Cát muôn kiếp mải nhớ lần gặp xưa

Tô Thùy Yên

Mặt trời thức dậy trên sông Hằng
ngày đầu tiên một thiên niên kỷ mới
mặt sông rực rỡ ánh bình minh 
lòng sông sâu thẳm 
chuyên chở kiếp nhân sinh

... 
Người về đây làm hạt bụi ban sơ
chìm vào bát ngát 
Ngàn vạn năm qua
Dòng sông chảy mãi 
Hạt bụi còn là
 
Khánh Hà

Nhưng không ai quy tụ về đây nhiều câu chuyện, nhiều vấn đề như tác giả Viễn Đằng Chu Tác. Mỗi nhân vật của ông có một câu chuyện riêng, xảy ra tại Nhật Bản, tại Mãn Châu, trên đất Pháp, trong rừng già Miến Điện... độc lập với nhau, nhưng tất cả gặp nhau trong một chuyến du lịch từ Nhật sang Ấn Độ để đến với dòng sông Hằng, và hình như được nối kết lại trước dòng sông thiêng cuộn chảy.
Trước hết là câu chuyện của cô Mỹ Tân Tử và anh chàng Đại Tân, được xem như hai nhân vật chính trong cả cuốn truyện. Chàng là một thanh niên thật thà, mộ đạo, làm ngứa mắt cô bạn sinh viên rất tân thời Mỹ Tân Tử, và nàng quyết định quyến rũ chàng làm người tình của mình để “phá” chơi. Con người thật thà ấy sa vào bẫy tình thật, nhưng trò chơi của Mỹ Tân Tử sớm kết thúc để cô nàng còn... đi lấy chồng, và Đại Tân, tỉnh cơn mộng tình, đi tu linh mục tại một nhà dòng mãi tận tỉnh Lyon bên Pháp.

Kế đến là “trường hợp của ông Cơ Biên.” Vợ ông mất vì bịnh ung thư, nhưng trước khi chết đã trối trăn cùng ông: “Em... biết chắc... em sẽ được tái sinh ở một nơi nào đó trong thế giới nầy. Mình nhớ đi kiếm em... gặp em... Mình hứa đi! Mình hứa đi mình!”

Trường hợp ông Chiểu Điền là một nhà văn viết cho nhi đồng, một người từ nhỏ đã yêu súc vật, và suốt đời viết văn của ông, các con chim nuôi trong nhà đã là những người bạn tâm sự của ông. Cho đến khi bệnh nặng, phải mổ, các con vật vẫn hiện diện bên cạnh ông, và ông nghĩ chúng đã cứu mạng ông.. Ông Mộc Khẩu lại là một trường hợp có liên quan đến đại chiến thế giới thứ hai, khi ông là một người lính Nhật bại trận trong rừng già Miến Điện, đã phải ăn thịt đồng đội để sống còn. Và nhiều chục năm sau, đó vẫn là một ám ảnh không nguôi trong tâm trí ông.

Cô Mỹ Tân Tử, ông Cơ Biên, ông Chiểu Điền, ông Mộc Khẩu cùng nhau đi thăm Ấn Độ trong một chuyến do hãng du lịch tổ chức. Mỗi người một tâm trạng, một mục đích thầm kín riêng và phản ứng mỗi người một cách trước xứ Ấn Độ nghèo mà huyền bí. Ông Cơ Biên theo đuổi một mục tiêu mơ hồ là tìm người mà có thể vợ ông đã đầu thai, nhưng làm sao tìm cho ra? Nhưng người gặp chuyện không ngờ nhất chính là cô Mỹ Tân Tử: cô đã gặp Đại Tân ở Ấn Độ. Chính trường hợp Đại Tân và sự kiện mọi người tập hợp nhau bên bờ con sông thiêng mới là chủ đề chính được tác giả ấp ủ.

Trong tác phẩm Sao Chúa Mãi Im, những khó khăn trong sự hội nhập của Kitô giáo vào Nhật Bản cách đây ba bốn thế kỷ là do nguyên do chính trị, lịch sử, còn bây giờ, với Bên Giòng Sông Hằng, sự khó khăn ấy vẫn còn, nhưng hoàn toàn do tính-cách-nhật-bản của người Nhật, mà đại diện là anh chàng Đại Tân thiệt thà, chân chất qua tận Pháp để tu thành linh mục. Hãy nghe một vài đoạn đối thoại, Đại Tân tâm sự với Mỹ Tân Tử khi hai người gặp nhau tại Lyon, nơi Đại Tân đang tu.

- Tôi ở đây đã ba năm rồi. Đã quá chán cái lề thói suy nghĩ của người nước này. Lề lối suy nghĩ, mà họ bóp méo vê tròn làm sao cho thích hợp với ý muốn của họ, thật là nặng nề với một người có não trạng Á đông như tôi. Tôi không thể hòa đồng được. Ngày nào cũng như ngày nấy, cứ bứt rứt vì những chuyện như thế. Khi tôi trình bày những chuyện như thế với các thầy cùng lớp và với các cha giáo, họ nhắc nhở cho tôi biết rằng đã là chân lý thì không còn phân biệt chân lý của người Tây phương hay Đông phương. Họ cho là, chẳng qua vì tôi bị chứng loạn thần kinh chức năng, bị ẩn ức mặc cảm gì đó. 

... Tôi không thể phân biệt Thiện, Ác rạch ròi như những người ở đây được. Tôi nghĩ là trong Thiện có Ác mai phục, trong Ác có Thiện nằm vùng. Có thế Chúa mới dùng ngón ảo thuật của Ngài được. Mặc dù tôi là kẻ tội lỗi, Ngài cũng đã uốn nắn tôi, đưa tôi vào đường cứu rỗi.
... Đối với Giáo hội, tư tưởng của tôi là tư tưởng rối đạo. Tôi đã từng bị quở trách như thế. Cô đừng nên tách biệt, phân biệt cho ra đầu ra đuôi bất cứ cái gì. Chúa thì không như thế.

... Trong dòng, họ vẫn cho tôi là kẻ có khuynh hướng rối đạo, nhưng vẫn chưa đuổi tôi ra khỏi tu viện. Có điều là tôi không thể lừa dối với chính mình được. Sẽ có ngày tôi trở về Nhật Bản - tôi sẽ đào sâu suy tư về một Kitô giáo ứng hợp với tâm thức Nhật Bản.

Có một sự không đồng nhất, không hài hòa giữa đức tin của Đại Tân và cái hệ thống mà anh đang ở trong để thể hiện lòng tin ấy. Chàng cảm thấy Tình Thương đích thực rộng lớn hơn bất cứ khuôn khổ tổ chức nào, giống như vị linh mục trong Sao Chúa Mãi Im đã thốt lên trong cơn bách hại: “Nhưng con biết, Đức Chúa Trời mà Giáo hội dạy, khác với Đức Chúa Trời của con.” Chính vì thế, Đại Tân đã đi Ấn Độ, và đã hành xử không theo tư thế của một linh mục Công giáo dù lúc bấy giờ chàng đã là linh mục. Chàng sống như một tiện dân Ấn, đến với các tiện dân khác, và nhất là chuyên đi thu nhặt các xác chết vô thừa nhận để mang đến bãi hỏa thiêu trên bờ sông Hằng.
”Nếu Người ấy trú ngụ trong thành phố này, tôi tin là Người cũng sẽ cõng những người gục chết đó đến bãi hỏa táng, giống như Người đã từng vác thập tự giá vậy.”

Đó là lời Đại Tân nói với Mỹ Tân Tử khi hai người gặp nhau lại tại Ấn Độ, nơi cái thành phố có dòng sông Hằng chảy qua. Tại đây ông linh mục người Nhật ấy đã bị nhà thờ của tôn giáo ông xua đuổi, và nếu không giả trang thành kẻ tiện dân để làm những điều ông thấy cần làm thì chính người Bà La Môn cũng sẽ xua đuổi ông nữa, vì Ấn giáo tuyệt đối cấm những người khác tôn giáo đi vào bãi hỏa táng của họ. Ông đã thể hiện Tình Thương theo cách của ông, tâm thức ông trực tiếp hòa nhập với một tâm linh rộng lớn không cần thông qua một giáo hội, một tổ chức, một luật lệ do con người đặt ra, những thứ không sớm thì muộn cũng sẽ trói buộc, xiềng xích, điều kiện hóa những Đức Tin bao la phơi phới nơi những người như ông.

Endo Shusaku với Bên Giòng Sông Hằng đã đưa đến tột đỉnh chủ đề mà ông cưu mang suốt cuộc đời viết văn của ông, chính trong tác phẩm này người ta mới thấy được thị kiến về một TÂM-THỨC-MỚI chuyên chở được muôn dòng sông tư tưởng và tôn giáo. Với một nội dung linh hoạt, hấp dẫn, rất thời đại, ông đã thành công đưa ra một vấn đề muôn thuở, mà có lẽ hơn lúc nào hết con người của thời đại này phải lo vun đắp, đó là Tâm Linh nơi mỗi chúng ta.



* Bên Giòng Sông Hằng, Endo Shusaku, Nguyễn Văn Thực dịch, Thế Kỷ xuất bản năm 2000.