Mùa hè năm 1954 tôi đã là một thiếu niên, vừa đủ hiểu biết để theo dõi các
chuyển biến quân sự chính trị của đất nước, từ trận Điện Biên Phủ đầu tháng Năm
cho đến khi ký kết hiệp định Genève vào tháng Bảy, và tiếp theo đó là cuộc di
cư của đồng bào ngoài Bắc vào Nam. Bây giờ đã lớn tuổi, nhớ lại quãng thời gian
ấy, tôi thấy cậu thiếu niên là tôi lúc đó hầu như đã trưởng thành hẳn trong
vòng có mấy tháng với những biến cố rung động cả đất nước và con người Việt
Nam.
Cuộc di cư của đồng bào miền Bắc đối với tôi bắt đầu ngay từ sau
khi hiệp định đình chiến và chia đôi đất nước được ký kết tại Thụy Sĩ. Tôi rúng
động khi biết sẽ mất Hà Nội, và những ngày ấy tôi thường theo dõi đài phát
thanh Hà Nội --thời đó gọi là đài Hirondelle (chim Én)-- mà trước kia tôi chưa
bao giờ nghe. Tôi còn nhớ buổi phát thanh cuối cùng của Tổng hội Sinh viên Hà
Nội trước khi từ giã đất Bắc để vào Nam, nghe xong lòng tôi buồn như muốn khóc.
Không biết trong buổi phát thanh đó có mặt các anh Trần Thanh Hiệp, Doãn Quốc
Sỹ, Mai Thảo... hay không, sau này quen biết với các anh tôi chưa bao giờ hỏi
điều ấy. Nhưng buổi phát thanh ấy đã hằn trên tâm hồn mới lớn của tôi một ấn
tượng lớn lao về lịch sử, về sự chia cắt và nỗi nhớ thương một Hà Nội mà từ nay
trở đi sẽ không còn là Hà Nội như tôi đã biết từ trước nữa.
Bài hát Hướng Về Hà Nội của Hoàng
Dương phổ biến trong mùa hè ấy đối với tôi mãi mãi là một nhạc phẩm lớn ghi lại
nỗi niềm, như tôi vừa viết, nhớ thương một Hà Nội từ nay sẽ không còn như xưa
nữa. Đó không phải chỉ là lời giã biệt của một chuyến đi, mà là giã biệt vĩnh
viễn những thành tựu văn hóa ngàn năm cô đúc trong một đô thị đầy ắp lịch sử và
các giá trị nhân văn của một dân tộc. Suốt bài hát những tiếng kêu khắc khoải Hà
Nội ơi, Hà Nội ơi lặp đi lặp lại trước mỗi tiểu khúc mô tả kỷ niệm, nếp
sống, vẻ đẹp của người, của cảnh... như là một cố gắng dựng lại bao cái tinh
hoa của Hà Nội trước khi vĩnh viễn dứt lìa. Quả thế, kể từ đó, tất cả vẻ đẹp cổ
điển của Hà Nội đã hoàn toàn bị xóa bỏ không còn bao giờ hồi phục được nữa.
Thế rồi vào một ngày cuối hè đầu thu năm ấy, thành phố Hội An
nhỏ bé và cổ kính của chúng tôi bắt đầu đón tiếp người Bắc di cư. Mấy cái lều
thật lớn được dựng lên trong khu vực sân quần vợt của thành phố, và một hôm đầy
ắp người ở. Nhưng đó chỉ là nơi tạm trú, không lâu các gia đình ấy tản đi thế
nào tôi không rõ, chỉ thấy lều trại được giở đi, và thành phố có thêm một số
gia đình người Bắc cư ngụ đây đó, công sở có nhiều người Bắc làm việc hơn, niên
khóa mới 1954-55 trường Trần Quý Cáp chúng tôi có thêm một số bạn học mới nói
tiếng Bắc, trong đó có những “cô em Bắc Kỳ nho nhỏ” rất duyên dáng. Và từ thời
điểm này một số giáo sư mới di cư bắt đầu về dạy tại trường, trong đó có thầy
Dương Đức Nhự mà mãi cho đến bây giờ tôi vẫn giữ những liên hệ đầy tình cảm.
Và, một tiệm phở được khai trương một cách tạm bợ ở một con đường gần chợ. Tiệm
phở này tôi cho là một nét văn hóa ẩm thực Bắc Kỳ đầu tiên xuất hiện một cách
rõ rệt tại cái thành phố rất kiên cố về mặt truyền thống của chúng tôi. Trên
những chuyến xe đò Hội An - Đà Nẵng nay thường có mặt một số hành khách mới, đó
là một số các bà di cư có lẽ đi buôn bán, khi bước lên xe thường nói “Tôi đi Tu
Đoan” mãi sau tôi mới hiểu các bà muốn nói Tourane, tức Đà Nẵng gọi theo lối
Pháp.
Làn sóng di cư đến với Hội An tương
đối mỏng và nhẹ nhàng, tất cả bà con di cư hòa nhập vào nếp sống Hội An một
cách êm đềm, không gây một xáo trộn nào trên vẻ trầm lặng của thành phố cổ này.
Nhưng ai cũng biết tầm cỡ của cuộc di cư trên cả miền Nam thì rất lớn lao, đã
đem lại nhiều thay đổi tích cực trên nhiều lãnh vực trong phần lãnh thổ phía
nam vĩ tuyến 17. Điều ấy dễ hiểu, vì bỗng nhiên miền Nam có thêm gần một triệu
công dân, trong đó có rất nhiều thành phần ưu tú của đất nước.
Từ đó đến nay 60 năm đã qua. Chẵn một
chu kỳ 12 con giáp. Trong đời một người khó có chuyện gặp lại kỷ niệm lần thứ
hai sáu mươi năm biến cố này.