Phạm Duy thuở đi kháng chiến
Trong
chuyến đi Mỹ mùa hè năm 1970, tôi có tặng cho các bạn quốc tế một số cuốn Dân
Ca-Folk Songs của Phạm Duy, trong đó các lời ca được dịch sang tiếng Anh. Mấy
hôm sau một cô bạn Thụy Điển nói với tôi: "Lời các bản nhạc trong cuốn
sách hay quá!" Tôi không ngạc nhiên vì lời khen ấy, vì tôi đã biết lời
trong đó rất hay, tôi chỉ mừng có người chịu khó đọc và hiểu được cái hay đó.
Tôi nhớ cô bạn đã chỉ tôi coi bài Xuân Ca
(mời bấm vào lời bài hát để nghe Xuân Ca)
Rồi
nói với tôi: "Tôi chưa thấy ai nói về mùa xuân của đời mình như thế này.
Mùa xuân bắt đầu từ khi mầm sống đầu tiên của tôi được tạo nên, được tả trong
động tác ái tình của cha và mẹ. Thật tuyệt vời."
Thú
thật lúc bấy giờ tôi ngỡ ngàng. Tôi đã hát Xuân Ca nhiều lần, và không lưu ý để
hiểu hết ý nghĩa của ngay đoạn mở đầu như cô gái Thụy Điển đã nhìn thấy trong
bản dịch tiếng Anh. Thường bài hát nào cũng thế, thoạt tiên người ta rung cảm
vì âm hưởng của lời lẽ ngân lên hơn là chính ý nghĩa của lời lẽ đó, nhất là
loại ý nghĩa thâm trầm. Nhưng sau khi nói chuyện với cô bạn, tôi bỗng
"ngộ" toàn bộ nội dung mấy câu trên, và có cảm giác như mình ý thức
được tình trạng của mình từ khi mới chỉ là một tế bào, một con tinh trùng giữa
cõi âm u của "nguồn suối mơ" trong cha tôi, để vào đêm gối chăn phòng
the đầu tiên ấy, theo cơn "nắng lên từ cha" mà được phóng vào làm
chói chang lòng mẹ. Đó mới là nguồn cội của cái gọi là xuân của một đời người.
Ca tụng mùa xuân thì phải bắt đầu từ tình trạng ấy, chỗ thâm sâu, chỗ uyên nguyên
của tất cả những biểu hiện về sau mà người ta vẫn ca tụng về mùa xuân.
Sự
nghiệp sáng tác của Phạm Duy rất phong phú, như một trái núi quá lớn, muốn leo
lên thoạt tiên không biết bắt đầu từ đâu. Nhưng nếu muốn tìm một chủ đề chính
của toàn bộ tác phẩm của ông thì lại không khó, vì nó nổi bật lên như một ngọn
tháp giữa một khu rừng cây, đó là chủ đề về dân tộc và đất nước. Có thể đề tài
tình yêu cũng rất giàu có và quan trọng, và lại được biết đến nhiều qua trình
diễn, nhưng dân tộc và đất nước luôn luôn là cảm hứng căn bản, chủ đạo trong
sáng tác của ông, và trải dài suốt đời ông. Thử đi cùng ông một đoạn ngắn thôi,
đoạn mở đầu, từ 1945 đến 1951.
Không
phải chủ đề về quê hương dân tộc chỉ mới bắt đầu từ 1953 với bài Tình Ca, mà
sớm hơn nhiều, từ những ngày vận nước biến chuyển từ giữa thập niên 40 để chuẩn
bị vào cuộc kháng chiến chống Pháp. Bài Tình Ca chỉ là một sắp xếp rất lý trí
những nội dung chính yếu của tình yêu đất nước và dân tộc: tôi yêu tiếng nước
tôi vì những lý do này, tôi yêu biết bao người vì các yếu tố kia... dù cách
trình bày rất là nên thơ thì bài hát vẫn nặng tính cách tuyên ngôn, giảng giải.
Tình yêu thật sự không biểu lộ khi người ta nói "tôi yêu" mà ở trăm
ngàn cách thế khác, đi thẳng vào từng hơi thở, từng nhịp đập của mạch máu người
nghe, chứ không phải qua cái đầu. Tình yêu ấy bừng nở nơi chàng thanh niên Phạm
Duy năm 1945 khi Việt Nam đương ở ngưỡng cửa của độc lập mà phải đối đầu ngay
với ý đồ trở lại của thực dân Pháp, chàng thét lên trong cái thế nhất hô bá ứng
của dân tộc vào thời điểm ấy: Bờ cõi vang lừng câu quyết chiến! (mời bấm vào lời bài hát để nghe Xuất Quân) Chàng sống đúng trạng thái tinh thần của cả nước Việt
Nam lúc đó, và ghi lại trung thực hào khí của khoảnh khắc lịch sử ấy trong khúc
Xuất Quân, rồi chính khúc xuất quân đó đã ảnh hưởng ngược lại hâm nóng biết bao
bầu máu người trẻ lẫn người già từ Nam ra Bắc. Bây giờ nhìn lại thời điểm chớm
mở màn cuộc kháng chiến chống Pháp thì chỉ thấy duy nhất có bài Xuất Quân là
tiếng kèn xung trận dõng dạc và thôi thúc nhất vang lên trong cả nước, đi
trước, đi trên và đi thẳng vào lòng người hơn tất cả mọi hiệu triệu chính trị
của thời ấy.
Tình
yêu nước nơi Phạm Duy được khơi dậy bởi tình cảm chống ngoại xâm. Đó là tình
cảm chung của mọi người Việt Nam khi vừa thoát được ách nô lệ mà thấy nguy cơ
lại sắp bị xâm chiếm lần nữa, và từ khởi điểm ấy, mỗi người thể hiện tình yêu
nước mỗi cách, nông sâu dài ngắn hoặc biến thể ra rất khác nhau. Riêng với Phạm
Duy, xuất quân đánh Pháp chỉ là điểm khởi đầu của một hành trình vĩ đại về sau
để đi sâu, đi dài vào dân tộc và đất nước Việt Nam. Giữa thời đại mà tình yêu
nước bị lợi dụng và áp đặt bởi những loại quái thai xa lạ, chính các tác phẩm
của Phạm Duy sẽ có nhiệm vụ cứu chuộc niềm tin và tình tự chính thống của con
người Việt Nam, giữ vững một nối kết giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.
Vừa
rung xong tiếng kèn xuất quân, cũng trong năm 1945 ấy Phạm Duy lại viết Chiến
Sĩ Vô Danh. Tuy cùng bắt nguồn từ tình yêu nước, hai mặt của hai bài hát rất
tương phản nhau, cho ta thấy rằng ngay từ điểm xuất phát, Phạm Duy đã nhìn ra,
ngay cả trong không khí hừng hực của một dân tộc vùng lên, những sầu hận đời
lấp tan của biết bao số phận sẽ phải chịu khi lao vào cuộc này. Chết chóc sẽ
trùng điệp, nhưng vô danh, không ai biết đến. Vừa tấu lên điệu kèn ra quân hùng
tráng, Phạm Duy đã cảm ngay thấy cái oan khuất mênh mông của hy sinh và tàn phá
sẽ đến:
(mời bấm vào lời bài hát để nghe Chiến Sĩ Vô Danh)
Ông
biết thời gian (cũng tức là lòng người) sẽ rất vô tình với "vạn cốt
khô" sẽ phơi đầy đồng trong cuộc thư hùng (sắp đến) cho sự sống còn của
dân tộc, và ông nhắc nhở trước, ông lên tiếng đọc văn tế trước những oan khiên
rồi sẽ chỉ còn biết về hú với gió. Hồn của ông không phải là hồn riêng lẻ của
một cá nhân, nó phải là một phần hay nằm giữa cái đại ngã của một dân tộc mới
có khả năng yêu thương và tiên cảm số phận của dân tộc ấy đến thế.
Khi
cuộc toàn quốc kháng chiến bắt đầu, theo tôi bài quan trọng nhất của ông là bài
Đường Về Quê. Nếu Xuất Quân là tiếng kèn báo hiệu thời điểm vùng dậy đánh quân
thù thì Đường Về Quê là bản lộ trình của cuộc kháng chiến. Từ xưa, nước ta là
nước nông nghiệp, nông thôn là căn bản của cuộc sống kinh tế và đạo lý. Năm
1946, cuộc chiến nổ ra ở thành thị, và cũng như bao lần đã xảy ra trong lịch
sử, muốn lãnh đạo cuộc kháng chiến thì phải bỏ thành thị đi về vùng thôn quê và
rừng núi. Bước đường về quê của người thành thị là bước đường muôn thủa của các
trận chiến giữ nước của Việt Nam, đoàn người về quê cuối năm 1946 như dẫm vào
con đường cũ mà bao triều đại trước đã đi, với tâm trạng vừa bở ngỡ vừa say sưa
để làm lại cái sứ mạng lâu dài và gian nan. Bài hành khúc đơn sơ Đường Về Quê
vào thời điểm đó đóng vai trò như một đại cáo, một mặt ẩn dụ về con đường đi
của dân tộc, một đoàn người đi miên man
trên đường gian nan, luôn luôn phải lấy nông thôn làm gốc; mặt khác là bức
tranh tả thực đoàn người vừa phá hết phố
phường biệt ly đời gấm hoa ra đi để thực hiện lý tưởng của mình đối với đất
nước. Khác với thành thị của họ, đồng ruộng trong sạch quá, thơm tho quá. Bỏ
lại sau lưng đời sống ngựa xe giày dép áo quần của thành thị, họ đang dấn mình
vào thôn quê -- cũng là vào quê hương đích thực -- với cả một tâm trạng ngỡ
ngàng mới mẻ
Kìa
đoàn người đi say sưa qua đồng mênh mông
Người
bàng hoàng đưa câu ca theo nhịp chân không
Rồi
người sẽ hết bàng hoàng, rồi chân
không giày dép sẽ trở nên chai cứng, rồi người sẽ hóa thân nhập vào cảnh nương
chiều lúc chiều về rợp những nương khoai,
trâu bò về giục mõ xa xôi hoặc sẽ không xa lạ nữa với cảnh bóng người thấp thoáng cuối đường thanh
vắng, bước đều mà quang gánh nặng vai. Người thành thị sẽ trưởng thành với
nếp sống nông thôn theo với cuộc kháng chiến trưởng thành, nhưng tất cả phải
được mở đầu với Đường Về Quê.
Từ
đó, Phạm Duy tiếp tục con đường về quê, đi sâu, đi cao vào nhiều ngõ khác nhau.
Nhưng với phương tiện nào? Dĩ nhiên bằng tân nhạc, nhưng ông đã dựa vào những
truyền thống về nhạc điệu, tiết điệu, lời ca của dân ca cổ, căn bản là dùng hệ
thống âm giai ngũ cung nhưng phát triển cho phong phú hơn. Chưa kể tác động của
lời hát rất tài tình của ông, chỉ riêng nhạc điệu đã cho người ta cảm giác gần
gũi ấm áp như làm vang động lại nhiều âm hưởng vẫn nằm sâu tự đời não đời nào
trong tâm thức người Việt Nam. Và như thế, ông gửi cho chúng ta tâm tình về
người thương binh, về mùa đông chiến sĩ, về nỗi nhớ người ra đi của bà mẹ, của
người vợ, người con, về chiến thắng sông Lô, về cảnh nương chiều, hay cả khi đi
về miền Trung... tất cả như một dòng chảy đậm đà dịu ngọt thấm vào lòng người
nghe, người hát. Tân nhạc dựa trên căn bản dân ca là một nhãn hiệu trình tòa
của nhạc Phạm Duy ngay giai đoạn đầu kháng chiến, làm thành bản sắc của ông
suốt thời gian này và mãi mãi về sau. Trong một bài viết của mình trên báo
trong nước trong thời kỳ đổi mới (từ cuối thập niên 80), nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý
(tác giả Dư Âm) đã hết lời ca ngợi Phạm Duy về cách ứng dụng dân ca vào tân
nhạc này và nói rằng thời đầu kháng chiến ấy ông đã học hỏi phương cách này rất
nhiều. Phạm Duy nhìn cuộc kháng chiến một cách toàn diện, không chỉ nhấn mạnh
khía cạnh chiến đấu. Mà hình như ông không để tâm nhiều về những chiến công, về
tinh thần bắn giết. Ông thường nghiêng về những số phận trong cuộc chiến, như
người thương binh, bà mẹ có con bị giặc giết, hay là cảnh hoang tàn không bóng
trâu cày trên đồng, vắng tiếng heo gà trên sân, hoặc tinh tế hơn khi quan sát
làng mạc vùng bị Tây chiếm:
Nửa
đêm thanh vắng không một bóng trai
Có
tiếng o nghèo thở dài
Vỗ
về trẻ thơ bùi ngùi.
Và
cả cái chết, thường được ông nhắc đến một cách bi ai và hùng tráng:
Người
đi không về chắc rằng có người nhớ
Sương
khói chiêu hồn hiu hắt những chiều trận vong.
Dân
tộc và đất nước đối với ông không còn là những khái niệm trừu tượng, viết về
cuộc chiến không phải là hô những khẩu hiệu "tiến công" chung chung,
mà là những mảng đời cụ thể, có thể đau thương, có thể hùng tráng và nhiều khi
cũng rất là thơ mộng. Không nhạc sĩ nào trong cuộc kháng chiến Pháp đã ghi lại
nhiều bức tranh cực tả từng nỗi niềm trong lòng đời sống thời đó như ông. Điều
đó chắc là không làm vừa lòng đảng cộng sản lãnh đạo cuộc kháng chiến đang dần
dần thu về một mối tất cả sinh hoạt văn nghệ cho phù hợp với "tính
đảng," không muốn có những sáng tác linh tinh ngoài đường lối, nhưng các
sáng tác của ông lại là một may mắn cho dân tộc Việt Nam vì nhờ Phạm Duy mà đã
có những tiếng hát nói lên được một cách vừa thâm sâu vừa thăng hoa niềm tự
hào, sự đau thương, tính bền bỉ gan dạ và lòng yêu nước của dân tộc trong một
giai đoạn lịch sử toàn dân vươn mình chấm dứt chế độ thực dân trên đất nước.
Khi
các bài học đầu tiên của cộng sản Trung Quốc được đem ứng dụng tại Việt Nam thì
nhiều người bỏ hàng ngũ kháng chiến để về thành phố. Họ thấy không liên quan gì
giữa việc tranh đấu giành tự do độc lập cho đất nước với việc đấu tố địa chủ,
bóp nghẹt tự do tư tưởng, thờ phượng một chủ nghĩa ngoại lai xa vời. Nhiều
người đã thấy trước đó sẽ là mối họa. Như bao nhiêu người thời đó, Phạm Duy đi
tìm một môi trường nhân bản hơn, ở đó ông có thể tiếp tục phát triển cái tình
cảm thắm thiết của ông đối với đất nước cũng như bao tình cảm khác thuộc về con
người. Và quả thế, so với những nhạc sĩ cùng lứa với ông vẫn ở lại với cộng
sản, con đường khai phá của ông đã đi quá xa và quá cao, ông đã xây đắp nên cả
một lâu đài huyền hoặc trong sáng tác, trong khi những người kia, cụ thể như
Văn Cao bạn ông, một nhạc sĩ tài năng của Việt Nam mà chỉ bừng lên một số tác
phẩm thời kỳ đầu kháng chiến, rồi sau đó khô cạn, hiu hắt, tắt hơi.
Về
thành từ năm 1951, ông đóng lại một giai đoạn sáng tác và mở ra một giai đoạn
mới: trước đây trong cuộc chiến ông đã nói lên vinh quang và khổ đau của dân
tộc, bây giờ ông đi vào tình tự quê hương. Nhưng dù là giai đoạn nào, chất liệu
cơ bản bất biến của ông vẫn là tình yêu dân tộc và đất nước.Tình Hoài Hương,
Tình Ca, rồi trường ca Con Đường Cái Quan, trường ca Mẹ Việt Nam và vô số các
bản nhạc khác của ông đã đưa "tình tự dân tộc" thành một vùng lớn
rộng như biển, cao như núi và sâu thăm thẳm như mấy ngàn năm lịch sử của đất
nước Việt Nam. Leo vừa hết một ngọn núi lại thấy hiện ra một đỉnh khác, thôi
xin hẹn để qua cơn choáng ngợp sẽ lại tìm đường lần hồi đi thám hiểm nữa. Chỉ
mong gối chưa chồn, như Phạm Duy đã hát ngày xưa: đường mịt mùng, bàn chân
còn rong ruổi ruổi rong...
(Báo
Văn đặc biệt Phạm Duy, số 66 & 67, tháng Sáu và Bảy, 2002).
*
Trong cuốn Dân Ca-Flolk Songs của Phạm Duy, đoạn này được dịch ra Anh ngữ như
sau:
My
spring is born one joyful night in the bedroom
When
the pillow and the blanket welcome my parents
My
spring time comes from a dark dreamed spring of water
It
comes alive with the sunlight of my father
Rising
in the interior of my mother
O
spring! O spring!
(Chú
thích được thêm vào sau, không có trong bản in của báo Văn)