Theo sự hiểu biết của
tôi thì nhà văn, nhà đạo diễn điện ảnh Trần Văn Thủy là người đầu tiên sống
trong xã hội Việt Nam đương thời đã đặt vấn đề Tử Tế bằng tác phẩm của mình.
Cuốn phim tài liệu Chuyện Tử Tế của ông thực hiện năm 1985, được công bố ít năm
sau đó, đã gây một chấn động trong lương tâm của con người, không những của
người Việt Nam mà còn nhiều nơi trên thế giới.
Có chuyện gì vậy? Chuyện
tử tế? Thì có gì lạ? Chẳng phải là từ khai thiên lập địa con người vẫn sống
giữa cuộc tranh đấu giữa cái Thiện với cái Ác đó sao, một cuộc tranh đấu bất
tận như tên của một cuốn phim Mỹ: From
Here To Eternity -Từ đây cho đến mãi mãi về sau, được người Pháp chuyển
dịch thành Tant qu’il y aura des hommes
-Cho đến khi nào còn con người. Hai cái tên tiếng Anh và tiếng Pháp của
cuốn phim nổi tiếng ấy đều cho thấy cuộc xung đột giữa cái tốt và cái xấu nó sẽ
còn mãi mãi trong xã hội loài người, khiến người ta phải nghĩ một cách sâu xa
hơn, là bản chất và mục tiêu đời sống của chúng ta chính là cố gắng đẩy lùi cái
xấu để cái tốt được lên ngôi.
Nhưng nghĩ cũng lạ, cái
trật tự tinh thần để phân biệt tốt xấu thì đã được con người xác định từ rất xa
xưa, có lẽ ngay từ bản năng của sự sống: mạng sống là tốt, giết hại là xấu;
thương yêu là tốt, thù hận là xấu; tự do thoải mái là tốt, gông cùm kiềm hãm là
xấu; sáng kiến phát triển là tốt, hủ lậu trì trệ là xấu; no cơm ấm áo là tốt,
đói rét là xấu... Những cặp tốt xấu như thế có thể kể ra vô tận, cho thấy thân
phận của con người thật ra rất chênh vênh, nhưng kinh nghiệm sống và sự thăng
hoa tinh thần của con người trong quá trình “thành người” của mình đã khẳng
định phía nào nên theo, cái gì nên loại bỏ. Ý thức đó tạo nên ĐẠO LÝ chung cho
cuộc sống của con người đông tây kim cổ.
Chuyện con người sống tử
tế với con người và vạn vật chẳng qua cũng chỉ nằm trong Đạo Lý ấy mà thôi,
nhưng sở dĩ có người như Trần Văn Thủy phải làm phim để đặt ra như một vấn nạn
trước lương tâm con người, là vì cuộc sống trong cơ chế đang ngự trị trên đất
nước Việt Nam xem ra thiếu vắng sự Tốt lành mà ngược lại, nghiêng về phía cái
Ác. Đây không phải là chuyện tốt xấu trong một xã hội bình thường, mà là kết
quả của một chế độ khác thường. Vì thế nguy cơ của cái Ác trở thành một khuynh
hướng đè bẹp cái Thiện ngày càng rõ rệt, và đã trở thành một nguy cơ cho đất
nước và dân tộc Việt Nam.
Phim Chuyện Tử Tế ra đời
năm 1985, tính năm nay 2016 đã là 31 năm, vậy hành trình của nó và của tác giả
làm nên nó, hiện đã tới đâu rồi? Câu chuyện nó vượt biên một cách bí mật để đến
được Liên Hoan Phim Leipzig Đông Đức cuối năm 1988 có thể dựng thành một cuốn
phim trinh thám nghẹt thở. Và sau khi nó chiếu và được nhiệt liệt hoan nghênh
tại liên hoan này thì tới phiên tác giả của nó lập tức “vượt biên” sang Pháp
ngay trong đêm đó, cũng nghẹt thở không kém. Khi đã đến Pháp, tác giả của nó
mới biết Chuyện Tử Tế đã được giải thưởng Bồ Câu Bạc ở liên hoan phim Leipzig.
Rồi nó được chiếu trong rạp hát và đài truyền hình Pháp. Rồi nhiều nước khác đã
mua phim Chuyện Tử Tế...
Đạo diễn Trần Văn Thủy
vào thời điểm tham dự liên hoan phim Chuyện Tử Tế đã đứng trước một đường ranh
giới rất mong manh, hoặc nó đoạt được giải thì ông là người có công, được quay
về Việt Nam an toàn, hoặc nó không gặt hái được gì cả thì ông bắt buộc phải
chọn con đường lưu vong tại Tây Âu.
Nhưng sự tử tế đã mỉm
cười với ông, và hôm nay đạo diễn Trần Văn Thủy, ở tuổi 76, và đã đúc kết mọi
chuyện với cuốn sách Chuyện Nghề Của Thủy và cuốn Trong Đống Tro Tàn mà độc giả
đang cầm trên tay. Hình ảnh “đống tro tàn” mà tác giả gợi ra nó như thế nào là
tùy cách nhìn của người đọc, nhưng với tác giả, thì tôi đoán cái tên đó phần
nào cũng là tổng kết cái hành trình mà ông đã đi suốt nửa thế kỷ qua, tròn 50
năm (1966-2016). Chưa hẳn nó có ý nghĩa tiêu cực như khi chúng ta đứng trước
một căn nhà đã bị thiêu rụi, mọi thứ đã thành tro, mà chỉ là tổng kết thời gian
gần cả đời người với nhiều nỗi truân chuyên gay cấn liên tục với một chủ đề gần
như duy nhất: sự tử tế. Đống tro tàn chỉ là một cách nói, có thể là một ám chỉ
rằng trong cái đám ngổn ngang đó vẫn còn sót lại một vài tàn lửa sẽ làm bùng
lên ngọn lửa của cái Thiện.
Nhưng có một điều chắc
chắn, trong đống mà tác giả gọi là tro tàn này chứa đựng một tấm lòng hừng hực
nóng, qua các câu chuyện đời của tác giả. Có nhiều chuyện được kể lại, xem qua
thì là những chuyện vui buồn, những kỷ niệm trong đời, nhưng tất cả hầu như chỉ
một chủ đề, đó là sự thăng hoa tốt đẹp của bản chất con người, mà các tôn giáo
lớn từ hàng ngàn năm trước đã nhìn ra và dẫn dắt nhân loại.
Đây có thể là tác phẩm
văn học cuối cùng của ông, vì có cả lời trăng trối căn dặn mọi chuyện sau khi
ông qua đời. Trong Mấy Lời Gửi Lại, xem như là Di Chúc của ông, sau những dặn
dò cụ thể liên quan đến tang lễ và việc gia đình, gia tộc, ở phần cuối ông
viết:
“Hình như trên đời này chẳng có mấy ai khi nhắm mắt xuôi tay lại
không nuối tiếc việc nọ, việc kia. Phần tôi, tự xét mình là thường dân nhưng đã
cố gắng trong mọi hoàn cảnh, mọi bổn phận. Sức của tôi có hạn, tôi chỉ thương
xót cho bọn trẻ, con cháu tôi và con cháu chúng ta. Chúng thừa hưởng một gia
tài quá bề bộn của tiền nhân để lại. Không dễ gì để chúng có được một cuộc sống
hạnh phúc đúng nghĩa mà thế hệ chúng ta hằng mơ ước cho chúng.
Dẫu sao, tôi xin chân thành cầu chúc cho mọi người được sống trong
niềm vui, trong an bình và sự thanh thản của một xã hội lương thiện, tử tế hơn”.
Điều ông nuối tiếc là ở
chỗ lớp con cháu sẽ không được sống hạnh phúc đúng nghĩa mà thế hệ ông hằng
mong ước, nghĩa là sống trong một “xã hội lương thiện, tử tế hơn”. Một chữ
“hơn” đầy ý nghĩa, nói lên thực tại đáng buồn của xã hội Việt Nam trong hiện
tại.
Chương 2, Cha Tôi, là
một bài viết mà tôi cho quan trọng nhất trong tập sách này. Kể lại cuộc đời cha
mình, ông đã ghi rõ “tưởng nhớ về Thầy - người Cha đẻ và là người Cha tinh thần
của con” cho thấy cái nhìn đầy yêu mến và khâm phục của ông về thân phụ của
mình, mà theo tôi, ông coi là một mẫu mực, một tấm gương cho suốt cuộc đời của
ông.
Có một câu nói của thân
phụ ông mà suốt đời ông không quên, đó là câu thân phụ ông thốt ra một cách
bình tĩnh sau khi chứng kiến cảnh người bạn thân của mình (bác Phó Mâu) đã bị
bắn chết trong cuộc đấu tố:
“Sau hôm về chợ Cồn để chôn cất bác Phó Mâu, Thầy tôi lên gác nằm.
Một lát sau ông cho gọi tôi và Lai, người em sát tôi lên. Hai chúng tôi ngồi
chờ bố bảo gì. Ông vẫn nằm vắt tay lên trán, im lặng. Không hiểu sao những lúc
Thầy tôi im lặng như thế tôi rất sợ, tôi lên tiếng rất khẽ:
- Thầy bảo gì chúng con ạ?
Một lát sau ông mới thủng thẳng nói một câu rất ngắn: - Hỏng - hẳn
- rồi - các - con ạ!
Tôi không hiểu. Lúc đó tôi hoàn toàn không hiểu. Tôi hỏi lại:
- Thầy bảo gì cơ ạ?
- Thầy và bác Phó Mâu đã giúp Việt Minh quá nhiều, bây giờ bác
chết oan, Thầy không còn tin vào cái gì nữa!
Trong cuộc đời, tôi rất nhớ những điều Thầy tôi đã nói với tôi.
Đây không phải là lúc kể ra tất cả, nhưng cái câu đau đớn, bất đắc chí: "
Hỏng - hẳn - rồi - các - con ạ"! Thì chắc chắn xuống mồ tôi cũng không thể
nào quên được”.
Kể ra một người trong
tuổi thiếu niên mà được nhận lãnh một câu nói như thế từ cha của mình trong một
hoàn cảnh đặc biệt của đất nước thì cũng khó mà quên được.
“Hỏng-hẳn-rồi-các-con-ạ” là một khẳng định khái quát cả một sự sụp đổ toàn diện
trong tâm hồn người cha, truyền lại cho các con mình nhận thức về tương lai của
cái chế độ mà họ đang sống trong đó với biết bao kỳ vọng chế độ đó sẽ mở ra một
thời kỳ tốt đẹp cho đất nước. “Hỏng hẳn rồi” đã ghi một dấu ấn quan trọng nhất
trong lòng tác giả khi mới lớn, để suốt đời ông luôn để tâm nhìn thấy nó hỏng ở
chỗ nào, và định hướng các hành vi của ông để lên tiếng cảnh báo cho mọi người
về cái nguy cơ vô cùng thảm khốc cho cả một dân tộc.
Trong cuốn sách mà có vẻ
tác giả cho là cuối cùng này của mình, chúng tôi nghĩ chương Cha Tôi là nơi
Trần Văn Thủy khẳng định điều tâm huyết nhất trong đời mình, đó là nét Đạo Lý
mà cha ông đã truyền cho ông. Đạo Lý ấy cha ông đã tiếp nhận từ truyền thống
của dân tộc Việt Nam, nó cũng không khác với Đạo Lý chung của nhân loại đã có
từ ngàn đời.
Trần Văn Thủy thì quan
tâm và suy nghĩ rất nhiều về vấn đề nền tảng ấy trong các chương khác trong
cuốn sách này. Ông vốn là người làm phim tài liệu, luôn luôn ghi nhận và viết
xuống những đề tài mà ông cho là đáng làm phim trong suốt cuộc đời nghề nghiệp
của ông, nhưng tiếc thay không mấy dự định của ông đã được thực hiện. Chương
“Những kịch bản không thành phim” ông ghi lại nội dung những đứa con điện ảnh
không bao giờ được ra đời ấy, với những nhận xét có khi nhiều phẫn nộ.
Ví dụ từ năm 1980 ông đã
có một kịch bản về Trịnh Công Sơn:
“Một kịch bản khác tôi tâm đắc vô cùng đó là khi tôi viết về Trịnh
Công Sơn năm 1980. Có lẽ khi ấy vừa ở Nga về, vừa làm xong bộ phim "Phản
bội" nổi tiếng (1979 - 1980), đang "hăng tiết vịt", tôi đã viết
về Trịnh Công Sơn. Tôi kể những ngày tháng nằm hầm ở chiến trường miền Nam
(1966 - 1969), mở trộm đài Sài Gòn, nghe nhạc Trịnh mà nổi da gà. Những Đại bác đêm đêm vọng về thành phố/Người
phu quét đường dừng chổi đứng nghe/Những Người
con gái Việt Nam da vàng… Con người miền
Nam, hơi thở miền Nam, nhạc Trịnh ám ảnh tôi. Sao lại yêu thương đến thế! Sao
lại da diết lay động đến thế! Vấn đề tôi đặt ra trong kịch bản đó không chỉ là
những giai điệu, những ca từ hút hồn của nhạc Trịnh mà tôi tự vấn: Mảnh đất
nào, văn hóa nào, phẩm hạnh nào đã nuôi dưỡng một tâm hồn trong sáng và chân
thiện đến thế, đã sản sinh ra con người chân tình đến thế? Nếu như Karl Marx
nói: "Con người là sản phẩm của tổng hòa mọi quan hệ xã hội" thì cái
xã hội miền Nam đầy rẫy những "Tội ác và tàn dư của Mỹ Ngụy" ấy tại
sao lại sản sinh ra Trịnh Công Sơn?”
Ba mươi năm sau khi làm
phim Chuyện Tử Tế để kêu gọi lòng tử tế trong xã hội mình đang sống, đạo diễn
Trần Văn Thủy cay đắng nhận ra mình vẫn sống trong xã hội ấy, nhưng:
“Ngày nay trong một chế độ nhân danh sự ưu việt, người ta lại thấy
bao điều xót xa trong quan hệ giữa người với người. Tham nhũng, bè phái, cửa
quyền. Đạo đức xuống cấp một cách khủng khiếp.” ...
“Ai cũng biết rằng tòa án và pháp luật chỉ làm công việc giải
quyết hậu quả của hành động. Còn muốn ngăn chặn cái mầm gây ra tội ác, làm nó
triệt tiêu khi còn trong trứng, triệt tiêu ngay trong ý nghĩ của con người, thì
không gì bằng tôn giáo” (...) “tôn giáo nói chung, cái đạo chân chính nào cũng
khuyên con người nghĩ thiện, làm thiện, tránh xa tội lỗi, xa điều độc ác. Và
như vậy nó góp phần tích cực vào việc giữ gìn đạo đức, trật tự an ninh xã hội,
làm cho đất nước lành mạnh”.
Mỗi một chương của cuốn
sách này là một câu chuyện hay, có thể nói là hấp dẫn, nhưng luôn luôn ẩn nỗi
cảm động, thấm thía và rất lôi cuốn người đọc. Tác giả quan sát rất tinh tế về
các nhân vật mình quen biết, các sự kiện vui buồn xảy ra với mình, nhưng khi kể
ra thì chuyện nào cũng đáng là một bài học cho người đọc, bài học về nhân cách,
về thái độ sống ở đời với một chủ đề bất biến là tích cực nhấn mạnh về sự tử tế,
lòng nhân ái.
Tác giả có sự quan hệ
rất rộng rãi, đề tài viết có thể là về giới làm phim Nhật Bản, hoặc những người
Mỹ hoạt động văn hóa và nhân đạo; về việc thực hiện một cuốn phim tài liệu về
nhà thờ Phát Diệm với kiến trúc tôn giáo độc đáo; về một người thầy thuốc hiếm
có về bệnh phong cùi, Bác sĩ Trần Hữu Ngoạn, mà khi đọc xong câu chuyện của
ông, độc giả chỉ có thể thốt lên: đó là một bậc Thánh, hoặc là một Bồ Tát; về
nhạc sĩ Phạm Duy là người ông rất hâm mộ từ thời còn rất trẻ...
Với con mắt quan sát
tinh nhạy của một đạo diễn phim tài liệu cộng với một tấm lòng đề cao cái Thiện
và chống lại cái Ác, và cộng thêm nữa sự sắc sảo tinh quái của một người sống
trong sự kềm cặp mà lúc nào cũng khao khát xé rào để rao giảng những điều chẳng
phù hợp chút nào với đường lối của xã hội đương thời, Trần Văn Thủy rất xứng
đáng với câu nhận xét sau đây của Larry Berman, một nhà văn Mỹ:
“... on a war that ravaged so many, yet left us with survivors
like Tran Van Thuy, war photographer, filmmaker and ultimately philosopher.”
“... về một cuộc chiến đã hủy hoại biết bao sinh mạng, nhưng đã để
lại cho chúng ta những người sống sót như Trần Văn Thủy, một nhà quay phim thời
chiến, một đạo diễn điện ảnh, và cuối cùng là một triết gia.”
[Trích từ lời Tựa trong
bản dịch sang Anh ngữ cuốn tự truyện Trong Mắt Ai (In Whose Eyes) của Trần Văn
Thủy]
Nhìn cuộc sống ở một xã
hội mà ông phải sống và rút ra từ đấy những nhận xét, những phán đoán, thẩm
định nhằm phá vỡ hàng rào dây thép gai ý thức hệ quái đản trong thời đại của chúng
ta, thì ngoài vai trò nghề nghiệp, đúng Trần Văn Thủy còn là một triết gia, một
triết gia dấn thân với những tác phẩm văn học nghệ thuật rất can đảm và hết sức
sâu sắc của ông.
Chẳng hạn, nếu chúng ta
được xem phim Chuyện Tử Tế, hoặc ít ra được xem kịch bản của phim do chính đạo
diễn viết, chúng ta sẽ thấy lời bình trong phim quan hệ tới mức độ nào. Không
có lời bình thì chỉ là một phim câm, cái đó đã hẳn, nhưng điều quan trọng, đó
là lời bình do Trần Văn Thủy viết. Lời ấy là linh hồn của phim. Đó là những lời
gãy gọn dễ hiểu nhưng mang khả năng khái quát rất cao - xem/nghe tới đâu thấm
thía tới đó, và đặc biệt là nó có khả năng dẫn dắt người xem hiểu ra ngoài,
vượt lên trên những gì đang xem. Như thế, lời bình đã chứa đựng triết lý của sự
việc, sự vật, nâng chúng lên một tầng phổ quát.
Cách đây hơn mười năm
Trần Văn Thủy đã xuất bản cuốn sách có nhan đề Nếu Đi Hết Biển, nêu lên một
thắc mắc vừa cụ thể vừa siêu hình: nếu đi hết biển thì sẽ tới đâu? Thoạt đầu
với khái niệm trái đất tròn, tác giả cho rằng “nếu đi hết biển, qua các đại dương và các châu lục, đi mãi, đi mãi thì
cuối cùng lại trở về quê mình, làng mình”. Nhưng nhiều năm sau, khi tác giả
đã đi đến đất Mỹ thì mới thấy rằng người Việt xa xứ “qua các đại dương và các châu lục, đi mãi, đi mãi” mà cuối cùng
không thể “trở về quê mình, làng mình”
được.
Cuốn sách mới nhất Trong
Đống Tro Tàn này cho chúng ta cảm tưởng tác giả không còn điều thắc mắc ấy nữa.
Con đường địa lý của quả địa cầu dù trên mặt đất hay mặt biển thì rất rõ ràng, đi
mãi thì có thể trở về nơi mình xuất phát. Nhưng con đường của lòng người, với
bao nhiêu thứ hệ lụy của cuộc sống thì không thể vạch một lộ trình đơn giản
nào. Tâm trạng và mục tiêu của người Việt Nam khi dong thuyền ra khơi để làm
một chuyến vượt biên không lãng mạn tự hỏi đi hết biển thì sẽ đến đâu, mà là
nhắm tới một bến bờ cụ thể nào đó mình có thể sống được một đời sống tự do,
xứng đáng là của một con người. Nhưng một khi cuộc sống đã ổn định trên miền
đất mới, thì chắc chắn con đường quay về quê cũ trong lòng họ vẫn còn, dưới rất
nhiều dạng: chính trị, kinh tế, tình cảm... hoặc lắm khi chỉ là một giấc mơ về
một đất nước tốt đẹp hơn, đáng sống hơn.
Nhưng đâu phải chỉ có
con đường cụ thể với hai hướng đi và về nó ràng buộc chúng ta. Trong lòng bất
cứ ai cũng có thể mở ra vô số con đường sẽ dẫn đến vô số nơi mà chính trong tác
phẩm Trong Đống Tro Tàn tác giả luôn luôn đề cập tới: con đường của lòng tử tế,
của sự nhân ái. Con đường tình người rộng rãi thênh thang...
Nhạc sĩ Phạm Duy khi
viết câu kết cho trường ca Con Đường Cái Quan của ông, đã mô tả cảm nhận của
người Việt Nam khi đã hoàn tất cuộc Nam Tiến của mình tại Mũi Cà Mau:
Đường đi đã tới ! Lòng dân đã nối !
Người tạm dừng bước chân vui ! Người ơi !
Người mơ ước tới : đường tan ranh giới
Để người được mãi
Đi trong một duyên tình dài.
Con đường thế giới xa xôi,
Trong lòng dân chúng nơi nơi.
Phải chăng khi viết
những câu này vào năm 1960, Phạm Duy đã có tiên cảm về “con đường thế giới xa
xôi” mà người Việt Nam sẽ dấn bước vào, và sau này đã gây thắc mắc về một bờ
bến nơi Trần Văn Thủy? Nhưng Phạm Duy cũng thấy ra niềm vui trong “một duyên
tình dài”, phải chăng đó là tình của nhân loại, của sự Tử Tế, của lòng Nhân Ái
mà Trần Văn Thủy thao thức và vận động suốt đời ông để mong cho nó thắng cái
xấu và cái ác?
Nam California ngày 01
tháng Mười Một, 2016.
Phạm Phú Minh
Điện thư của đạo diễn Trần Văn Thủy gửi Phạm Phú Minh ngày 12 tháng 5,
2017
Anh Phạm Phú Minh thân quý !
Anh có khỏe không ? Mọi việc vẫn bình an đấy chứ ?
Bao giờ anh có ý định về Việt Nam ?
Tùy hứng thú và hoàn cảnh của anh thôi.
Xứ sở này niềm vui thì ít, nỗi buồn thì nhiều.
Các cháu giúp tôi, mới chuyển về được 80 cuốn
TĐTTàn, tôi đã phân phát cho bằng hữu (Saigon, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Hải
Phòng, Hà Nội) hết sạch. Ở Sài Gòn nhiều người đã đọc do thân nhân ở Mỹ gửi về.
Tôi muốn nói với Anh rằng : Mọi người đều rất có
thiện cảm với anh qua bài viết của Anh. Họ thấy rằng Anh là người có tấm lòng
rộng mở, hiền hòa, một sự hiểu biết sâu sắc và hết sức chân tình. Chưa có người
nào không cảm thấy hứng thú khi đọc bài của Anh. Họ so sánh bài của anh thì
lịch lãm là vậy, bên cạnh LỜI MỞ của tôi thì bổ báng và cay độc quá chừng...
(Tôi có nói với mấy người thân rằng : sau 1975 ông ta đã đi tù CS 13 năm rồi
đó).
Rất mừng là Đinh Quang Anh Thái đã sáng suốt mời
Anh giúp đỡ. Tôi vô cùng cảm kích về sự hỗ trợ, cảm thông của Anh, của ĐQAThái,
cháu NPhương và những cộng sự khi cho ra đời cuốn sách nhỏ mọn của tôi. Đó chắc
là những kỷ niệm, những hành trang hữu ích đối với tôi ở cuối cuộc đời này.
Cầu chúc Anh cùng những người thân yêu của Anh
luôn mạnh giỏi, nhiều niềm vui cùng vạn sự An Lành !
Một lần nữa cám ơn Anh !
TVThủy
Thư
trả lời của Phạm Phú Minh, cùng ngày :
Anh Trần Văn Thủy thân mến,
Được thư anh, tôi vừa cảm động vừa sung sướng. Theo như mô tả của
anh về phản ứng của người đọc sách trong nước thì bài viết của tôi cũng tạm làm
trọn nhiệm vụ giới thiệu của nó. Như thế là tôi mừng lắm rồi !
Nhưng anh Thủy ơi, cái được giới thiệu mới là quan trọng,
đó là cái khẳng định phẩm chất của lời giới thiệu. Nói cách khác, tôi chỉ là
tấm gương phản chiếu ánh sáng của anh mà thôi. Lấy một hình tượng cụ thể, tôi
là mặt trăng phản chiếu một thứ ánh sáng hiền lành xuống mặt đất sau khi nhận
được ánh sáng rực rỡ dữ dội từ mặt trời Trần Văn Thủy. Chỉ là một hình tượng để
ví dụ thôi, không phải tâng bốc nhau, nhưng trong đó hàm chứa sự thật : người
giới thiệu chỉ thuần túy làm công việc phản chiếu lại những gì nhận được, dĩ
nhiên qua lăng kính của mình.
Cái lăng kính ấy, tôi nghĩ, phải chứa nhiều tính chất "đồng
thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" với nguồn sáng nó nhận được thì mới
phát ra được sự phản chiếu trung thực. Đó là cái duyên gặp gỡ giữa hai tâm hồn
chúng ta vậy. Tôi phải cám ơn anh, cám ơn cái duyên đưa đẩy để tôi được hân
hạnh viết những gì từ anh : đó là cái duyên thật lành.
Trên đời không có gì quý hơn cái duyên lành đó anh ạ. Muốn có được
cái duyên đó, trước hết chúng ta đều cùng phải có cái tâm lành đã, và đó chính
là nguồn gốc của sự "đồng thanh tương ứng" vậy.
Thân mến cùng anh Thủy.
Phạm Phú Minh