Wednesday, June 25, 2014

ĐI TÂY



Đúng ra khởi hành từ Hoa Kỳ thì phải gọi là “đi Đông,” nhưng nói thế không ổn. Thứ nhất không ai nói “đi Đông” (trừ khi dùng trong nhóm từ “đi Đông đi Tây”) mà chỉ nói “đi về hướng Đông.” Và chữ Tây ở đây không còn là hướng Tây, mà trở thành tên thứ nhì của người Việt Nam đặt cho nước Pháp. Vậy từ bất cứ điểm nào trên trái đất, khi một người Việt nói “đi Tây” thì có nghĩa là đi đến nước Pháp vậy.

Không hẹn, mà cuối cùng Đỗ Ngọc Yến, Trần Đại Lộc và tôi đi Pháp cùng một lúc. Cũng là một cái duyên. Từ niên khóa đầu tiên chúng tôi học chung với nhau, 1957-1958 tại Đệ Tam C trường Petrus Ký, ba chúng tôi đã bắt đầu có những chuyến đi chung: gần thì đạp xe lên Lái Thiêu vào những ngày cuối tuần để la cà thăm những vườn cây ăn trái, xa thì có chuyến đi đầy kỷ niệm lên Đà Lạt đóng trại bên bờ hồ Than Thở vào dịp lễ Phục Sinh năm 1958. Rồi vào giữa thập niên 60 khi hoạt động thanh niên với nhau, chúng tôi đi cùng ra miền Trung, lên cao nguyên, xuống vùng đồng bằng sông Cửu Long…Sau 1975, mỗi người một cảnh, tưởng duyên nợ thế là chấm dứt, ai ngờ dần dà rồi cũng tề tựu về sống gần nhau, và rồi lại đi chung, và lần này thì đi Tây.

Đối với người Việt Nam trải qua nhiều thế hệ, đi Tây là chuyến đi oai hơn hết. Cả đối với chúng tôi ngày nay, dù đang sống tại Mỹ, những ngày chuẩn bị lên đường mỗi khi nói với ai câu: “Tôi sắp đi Pháp” thì tự bản thân câu nói dường như đã có một niềm hãnh diện ngầm. Điều ấy có lẽ chính yếu bắt nguồn từ truyền thống của mấy thế hệ người Việt Nam vẫn nhìn nước Pháp như là một nơi điển hình của văn minh và sang cả, và đến được nước Pháp là đạt được một mơ ước cao xa nhất về học hành cũng như biết được thế nào là sự rực rỡ và giàu mạnh của một quốc gia. Đến thế hệ của tôi tuy nước Pháp đã suy yếu và ảnh hưởng của Pháp tại Việt Nam không còn mạnh, chúng tôi lại có nhiều cơ hội để nhìn rộng ra nhiều nơi khác trên thế giới, thế nhưng dấu vết của truyền thống xưa vẫn không phai mờ. Truyền thống này hiện ra rõ nhất nơi những người lớn tuổi ở miền Bắc mà chúng ta gặp lại sau năm 1975, tất cả hình ảnh về thế giới Tây phương của họ ngưng đọng vào nước Pháp vào năm 1954, hoặc có thể xa hơn, vào 1945, và đông cứng nguyên hình như thế không thay đổi gì nữa. Các chuẩn mực về hàng hóa tiêu dùng, về văn chương, nghệ thuật của lớp có học cũ ở miền Bắc đều là chuẩn mực thời thuộc địa; các thứ của thế giới xã hội chủ nghĩa thì rõ ràng chưa có một trọng lượng nào để thay thế những giá trị cũ đã ngấm sâu trong lòng họ. Phải nhiều năm sau 1975, những nếp hằn sâu đó mới phai nhạt đi chút ít sau khi họ được biết tình hình văn minh thực sự của thế giới ngày nay. Truyền thống khâm phục nước Pháp đó tôi nghĩ không phải do sự “nhồi sọ” của người Pháp trong thời kỳ thuộc địa đem lại, mà là do giá trị nhân bản thực sự của nước Pháp về phương diện văn chương, mỹ thuật, tư tưởng, khoa học kỹ thuật…đã một thời rực rỡ ở một đỉnh cao của thế giới. Nói về tuyên truyền nhồi sọ thì ai hơn người Cộng Sản, nhưng vì dựa vào cái ảo, cái giả, cái không có thực, nên không đem lại sự tâm phục nào, như là tầng lớp cựu học của nước ta đã tâm phục nước Pháp.


Họp mặt bạn hữu tại nhà chị Thụy Khuê. Từ trái: Thế Dung, Trần Quang Hải, một thân hữu;
Thụy Khuê đứng, đang nói; Xuân Đài (con gái tác giả); Nguyễn Gia Kiểng, Đỗ Ngọc Yến

Cả ba chúng tôi đi Âu châu chuyến này vì những lý do  riêng, đi chơi chứ không phải “đi công tác” như ngày xưa. Đối với Lộc và tôi, đây là chuyến đi Pháp đầu tiên, và chúng tôi đều có người thân ở đó – điều kiện gần như là tiên quyết để chúng tôi có thể du lịch xa như vậy. Nhưng một khi đi mới biết rằng mình không chỉ có liên hệ gia đình ở đó mà thôi, còn vô số những liên hệ chằng chịt khác do cuộc sống xã hội đem lại mà mình không thể hình dung ra trước được. Tôi có rất ít bạn cũ tại Pháp. Nhiều người Việt ở Pháp du học ngày xưa, làm thành một tầng lớp trí thức khoa bảng tại đấy. Lớp bạn học cũ của tôi hầu như không ai du học Pháp, và lớp “xuất ngoại” sau này bằng đường vượt biên, hoặc bảo lãnh, hoặc HO thì phần lớn đổ vào Mỹ và các nước khác. Nhưng do công việc làm báo trong mấy năm qua, tôi có được một số quen biết mới, phần nhiều chỉ biết qua thư từ bài vở chứ chưa gặp lần nào. Đến Pháp, ngoài sự háo hức tự nhiên thấy được kinh đô ánh sáng, tôi còn cái háo hức được gặp nhiều người, “tuy lạ nhưng dường như đã quen từ lâu lắm.”

Paris

Lần đầu tiên đến đất Pháp, tôi gặp Paris với một nỗi sung sướng trẻ thơ và lãng mạn, dường như ước mơ của một thời trẻ tuổi vẫn còn nguyên đấy, và với chuyến đi này, tôi bắt đầu cuộc hành trình vào niềm mơ ước có từ thời ngồi trên ghế nhà trường của tôi.

Lộc và Minh tại Paris

Cách đây tám năm, lần đầu tiên tôi đến Hà Nội với nỗi lo sợ mình sẽ thất vọng vì gặp một thực tế không đúng như mình mơ ước, nhưng may mắn là ở đất Thăng Long tôi vẫn bắt gặp được cái linh hồn bất diệt của đất ngàn năm văn vật. Lần này tôi đến Paris tự tín hơn, mặc dù lòng vẫn bị ám ảnh bởi một số lời chê bai của một ít người từ Mỹ đi du lịch nước Pháp trở về. Đại khái họ nói: “Ồ Paris, chẳng có gì đáng nói, cũ kỹ, chật hẹp, mắc mỏ…” Nhưng khi tôi đến nơi, Paris đã bày ra trước mắt tôi hơn là những gì tôi tưởng tượng rất nhiều, uy nghi hơn, rực rỡ hơn và cũng thâm trầm hơn. Tôi không chia xẻ chút nào ý kiến của một số người Việt đã nhiễm lối sống tiện nghi ở Mỹ. Paris không phải là nơi để chỉ được đánh giá theo các tiêu chuẩn đời sống tiện nghi vật chất.

Tượng trên Khải Hoàn Môn        

Tôi đã sững sờ với kiến trúc của Paris. Đó là vẻ đẹp. Đó là hình ảnh của tư tưởng và tinh thần lớn lao, hoành tráng. Nhìn kiến trúc ấy mình thấy như đứng trước cái thăm thẳm của thời gian và lịch sử con người với các thành tựu to lớn cũng như các nỗi niềm mơ mộng của nó. Trần Hồng Châu đã ví hình thể Paris như một trái xoài, và phân vân không biết miếng nào trên trái xoài đó là ngon nhất. Xa lộ vòng đai đúng đã khoanh chu vi của Paris thành hình một trái xoài, và tôi thấy chỗ nào cũng ngon cả, cái ngon phân bố rất đều mỗi nơi mỗi vẻ, khác với Sài Gòn chỉ tụ ở mấy đường Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Tự Do. Nhớ lại thời gian gãy chân nằm một chỗ tại trại cải tạo Thanh Cẩm, Thanh Hóa, tôi đã nghiền ngẫm một cách thú vị vô cùng chương Victor Hugo viết về kiến trúc của Paris, trong cuốn Notre Dame De Paris. Theo tôi đó là chương hay nhất của cuốn sách, là một bảng nhạc trầm hùng nói về từng tảng đá, từng đường cống, từng khối tường làm nên thành phố này, qua nhiều thời đại. Đọc những trang sách ấy tôi đã như thấy Paris một khối sừng sững, chắc nịch, nhuốm một linh hồn bất diệt. Khi đến đây tôi đã cảm thấy ngay vẻ chắc nịch bất diệt ấy, nhưng đồng thời là cái tươi tắn linh động bao trùm đây đó. Đấy là đặc điểm của kiến trúc Paris. Vẻ cao lớn uy nghi một cách lạ lùng của nhà thờ gây sự khiếp phục và cảm giác nhỏ bé của người đứng xem, đã diễn đạt đúng tinh thần muốn mọi người quy phục duy nhất vào một Thượng đế của giáo hội Công giáo thời Trung cổ. Nhưng đền đài cung điện thì nhằm vào sự rực rỡ vàng son của cuộc sống trần thế, trong đó tính đa cảm của những pho tượng nói lên rất nhiều khía cạnh rung động nhân văn trước cuộc sống đa dạng trải nhiều thời đại. Tượng là cái đặc sắc của nước Pháp. Cái ngôn ngữ bằng đá ấy được đặt khắp nơi, nơi vòi phun nước, trên nóc điện Louvre, trên tường Arc de Triomphe, trong sân Versailles…thậm chí cả trong rừng cây. Với nét mặt ấy, với cử chỉ dáng điệu ấy, tượng nói được rất nhiều điều, người đối diện phải biết lắng nghe ra thứ ngôn ngữ vô thanh mà khối đá điêu khắc ấy liên tục phát biểu trong cái thăm thẳm của thời gian.

Cổng La Défense

Hẳn người Pháp hãnh diện với nền kiến trúc cổ của mình. Nhưng họ luôn chứng tỏ rằng họ nhạy cảm với cái mới, và muốn đi tiên phong trong việc xây dựng nên những cái mang tâm hồn và tầm vóc của từng thời đại. Tháp Eiffel là tượng trưng cho thành tựu của thời đại cơ khí. Khi nó được dựng lên, không ít người đã xỉ vả nó, cho rằng cái khung sắt nhọn ấy chỉ phá vỡ cái quần thể kiến trúc rất mượt mà rất thơ mộng trải nhiều đời thành tựu đã tạo thành Paris. Một đống sắt giữa một Paris đẹp đẽ huy hoàng, thật là vô duyên! Nhưng thời thế đã đổi thay, cái biểu trưng của thời đại phải thở hơi thở của thời đại, và tháp Eiffel là kết tụ hình ảnh và âm thanh sắt thép của biết bao cầu cống, xưởng thợ, công trường…trong thời cực thịnh của nền công nghệ Pháp, và nó đứng đó, đáp ứng cái mà tâm hồn con người mới cần biểu hiện. Cảm nghiệm của con người nghệ sĩ tiền phong đã thắng. Họ đã đúng, cho thời đại của mình và sau mình. Sự sáng tạo của họ không dựa vào cái đã qua rồi, dù cái đó có vàng son rực rỡ, mượt mà đáng yêu bao nhiêu đi nữa. Cũng thế những công trình của hậu bán thế kỷ hai mươi đã đem lại cho Paris những hình ảnh tiền phong mà không chắc người dân Paris nào cũng sẵn sàng chấp nhận ngay. Những ống, những trụ, những gióng sắt chằng chịt giống như một giàn phóng hỏa tiễn của Trung Tâm Pompidou có thể làm cau mày một người vừa đắm mình trong vẻ đẹp vĩnh cửu trong khung cảnh của điện Louvre, nhưng lại làm thỏa mãn tâm tình của đám người trẻ đơn giản quen với những hình dạng kỷ hà trong đời sống khoa học hiện nay. Vâng, rồi thì người ta sẽ đi trong những cái ống giống như cái ống bọc quanh hệ thống thang cuốn của trung tâm này, đó sẽ là những dự kiến không xa lắm! Xe điện ngầm há chẳng là một loại ống thô sơ rồi đấy ư? Cổng La Défense là một hình ảnh tân kỳ khác, tạo nên một vẻ đẹp khác không giống với vẻ đẹp của các đền đài truyền thống, nhưng chắc chắn là không lạc hậu so với các loại hình kiến trúc mới trên thế giới.

Xe điện ngầm

Tôi cảm phục hệ thống đường xe điện ngầm của Paris, một công trình vận chuyển tuyệt vời giải quyết hầu như toàn diện bài toán lưu thông rõ ràng là bế tắc của đường xá Paris mà không phải phá vỡ bất cứ công trình nào mà lịch sử nước Pháp đã để lại trên mặt đất.

Học cách đi xe điện ngầm là một điều rất thú ở Paris. Tôi cư ngụ ở một cùng ngoại vi thành phố, mỗi lần nhờ ai chở vào nội thành tốn quá nhiều thì giờ vì đường hẹp xe nhiều. Thế mà xe điện ngầm giải quyết tức thì việc đi lại của khắp Paris và vùng phụ cận một cách dễ dàng, đúng giờ, vừa túi tiền, và nhất là không căng thẳng với trò “lái xe làm xiếc” khi dùng xe hơi trên mặt  đất. Khi chiếc xe hơi bắt đầu đi vào một cái bùng binh ngả năm hoặc ngả bẩy thì hình như cuộc làm xiếc bắt đầu. Bùng binh thì rộng, có thể dung chứa một lúc nhiều dòng xe, và khi các ngả ào vào thì không còn biết ai ưu tiên, ai phải nhường cho ai, người ta cứ đi theo một giao ước ngầm nào đó, tôi nhích tới trước thì anh nhường cho tôi, anh đảo qua thì tôi chậm lại, người ta cứ lấn lướt nhau một cách hòa nhã, có văn hóa, và rồi xe cộ cứ thế lưu thông, sát cánh nhau mà lưu thông mà không hề cọ quẹt nhau mới là lạ. Ngồi trên xe giữa Paris tim tôi nhiều khi thót lại vì thấy rõ ràng là xe mình không thể tránh chạm vào xe bên cạnh trong một cái thế cùng lướt tới một không gian nhỏ xíu trước mặt, nhưng rồi xe nào cũng an toàn ai đi đường nấy, theo một khả năng nào đấy không hiểu được. Tôi thấy rõ rằng cứ lái xe riết trên đường sá thênh thang của Mỹ con người ta dần dần sẽ không phát triển cái tài xoay xở khéo léo của tay chân tại những nơi đất hẹp xe đông như Paris hay bất cứ đô thị xưa nào. Mà lại xe số tay chứ không phải số tự động. Tay trái cầm vô lăng, tay phải bỏ số lia lịa, hai chân cũng hoạt động đều chi, nhìn người Paris lái xe trong phố đông đúc, tôi, mà trước kia ở Việt Nam cũng lái toàn xe số tay, nay thấy mình đã bị thoái hóa, lười nhác, không còn năng động như người ở đây. Thì ra trong thiên nhiên cũng vậy mà trong môi trường nhân tạo cũng vậy, hoàn cảnh nào thì tạo ra con người đó, và con người vẫn là sinh vật có khả năng thích ứng vô tận. Cả chiếc xe cũng có khả năng thích ứng với môi trường rất tài. Ở nước Mỹ rộng rãi chiếc xe dềnh dàng, bề ngang đã bè bè mà đuôi thì dài thậm thượt, một cách vô lý, như là vì không gian lớn thì nó phải lớn theo cho thích hợp một tỉ lệ nào đấy. Quả nhiên ở Paris cũng có qui luật ấy. Ở đây chiếc xe co lại, và rụng đuôi. Nhỏ con và không có đuôi, như những con cút cụt đuôi trong ca dao Việt Nam. Cũng là theo thuyết thích ứng với môi trường sống thôi, riết rồi chiếc xe dính với con người, như một sinh vật, như con ngựa của thời xa xưa vậy. Nó dứt khoát phải cụt đuôi mới chen vào đậu được ở những khoảng trống độ vài sải tay, và nó phải gọn ghẽ tối đa mới có thể làm trò chơi giỡn trên những bùng binh ngả năm ngả bảy được.

Xe điện ngầm   

Xe điện ngầm là một thế giới khác hẳn. Đây là cõi âm. Chạy ngang chạy dọc toàn dưới lòng đất, thế mới gọi là “ngầm.” Nếu âm phủ có đến chín tầng thì xe điện ngầm Paris đã chui xuống đến tầng thứ hai rồi, nghĩa là đã có hai hệ thống địa đạo nằm chồng lên nhau ở trong lòng đất. Và người ta đang đào thêm một tầng dưới hai tầng hiện có để thực hiện thêm một hệ thống thứ ba nữa. Xuống xe điện ngầm là không còn trời xanh mây trắng, nhà cửa, người đi…, nói chung tạm biệt cảnh “trần thế” để chỉ thấy trong lòng một toa xe lửa sáng đèn lô nhô người. Và toa xe ấy chạy vùn vụt trong một cái ống tối đen, thỉnh thoảng đến một chỗ mở rộng sáng trưng, ấy là ga. Cửa mở, kẻ xuống người lên, rồi lại chạy.

Là cõi âm nhưng không phải âm khí nặng nề. Một cuộc sống tràn trề, năng động, thân thiết đấy. Nội cái việc đấy là nơi hàng ngày một số rất đông người dân Paris gặp gỡ nhau, trông thấy nhau, ngồi gần nhau, hoặc chen chúc nhau thì đã là một cái gì to tát rồi. Môi trường xã hội ấy lặng thinh, đấy không phải là nơi người ta thăm hỏi hay làm quen với nhau, ai cũng vội, có người ngồi vào xe là làm ngay một công việc nào đấy, như xem tờ báo, đọc cuốn sách, học bài, hoặc…ngủ, nhưng dù gì mặc lòng, xe điện ngầm vẫn là nơi con người hiện diện cho nhau. Có ở trong nỗi cô đơn của nơi thiếu vắng con người, hoặc hàng ngày vài ba giờ thui thủi một mình lái xe đi làm rồi về nhà như ở Mỹ mới thấy giá trị của việc mỗi ngày được tham dự vào cái đông đúc của đời sống métro. Ở giữa những con người, vui lắm chứ, chỉ cần ở giữa họ thôi, cảm thấy cái hơi của nhau là đủ để nuôi dưỡng sự tròn đầy của tình con người, là cảm thấy yên tâm, để không gây ra các méo mó dị dạng cho đời sống nội tâm do cô đơn. Mỗi buổi sáng lên đường đến sở trong chiếc xe hơi riêng tiện nghi của mình, phải nói đó là mơ ước cao nhất của con người từ khi có xã hội kỹ nghệ, nhất là khi quanh ta có một hệ thống đường sá rộng rãi tiện lợi. Thư thái, sang trọng, chạy bon bon, sáng đến tận nơi làm, chiều về chui vào tận garage của nhà mình mới chịu xuống xe, thật tuyệt vời. Nhưng cứ mãi như thế này ngày này qua ngày khác, đến một lúc người ta cảm thấy cô đơn, nhất là khi đường đi phải kéo dài đến một vài tiếng. Ngồi trong cái hộp ấy là chỉ còn một mình, cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài, phải nhờ đến radio, đến băng nhạc để bầu bạn, nhưng như vậy có khi còn tăng cảm giác lẻ loi lên thêm nữa. Một người bạn của tôi sau khi qua thời kỳ say mê chiếc xe mới của mình đã nói: “Đó là chiếc quan tài biết đi.” Chắc anh ta hình dung cái chết là rất cô đơn, nên nói như vậy để diễn tả nỗi cô đơn của mình. Dấn mãi vào cô đơn là tự hủy diệt, còn sống giữa đông đúc nhân quần là nhân cái khả năng sống của mình lên gấp bội. Xe điện ngầm là để cứu vãn toàn thể kiến trúc tuyệt đẹp của kinh thành Paris khi nhu cầu vận chuyển trong đô thành lên quá cao, nhưng không ngờ cũng giải luôn bài toán con người trong thời đại kỹ nghệ.

Hầm xe điện là một đời sống khác của Paris mà không có nó đời sống đích thực của Paris như  hiện tại sẽ không có được. Nó mới là huyết mạch của lưu thông thành phố, giúp đưa hàng ngày không biết cơ man nào là người từ nhà đến sở và ngược lại, và bao nhiêu nhu cầu đi lại khác. Nó làm biến đổi khuôn khổ tờ nhật báo, bề ngang bây giờ rút lại chỉ còn độ 30 phân để khi giở ra đọc trên phương tiện chuyên chở công cộng người ta không làm phiền đến người ngồi bên cạnh. Khi mới làm quen với cách đi métro, tôi lại đã nhớ đến Nhất Linh với bài học đi métro mà ông đã tả trong Đi Tây. Thời đó chưa có hệ thống RER, tức đường xe nhanh nối liền với các vùng phụ cận của Paris ngày càng đông đúc và hiện chui nằm ở tầng dưới hệ thống métro nội thành cũ, nên Nhất Linh chỉ mách cho rằng một khi đã mua vé độn thổ thì tha hồ đi hết đường này đến đường khác, đi cả ngày cũng được, nhưng hễ chui lên thì mất toi cái vé. Nhất Linh đã nhắc đến cái thú đứng dò tìm đường trên bản đồ dưới hầm métro, có những tên ga ngộ nghĩnh, khi bắt chuyện với một người đẹp bên cạnh mà cô ta khinh khỉnh không trả lời thì chỉ vào “Ga Câm” (hẳn là La Muette) đọc to lên, có khi cô ta sẽ hiểu; hoặc thấy một bà đang mắng chồng như tát nước vào mặt, chỉ vào Gare de Lyon đọc to lên ý nói bà là sư tử Hà Đông…Bây giờ các tên ga cũ vẫn còn nguyên, cách dùng vé vẫn như xưa, nhưng hệ thống rắc rối hơn vì có thêm tầng RER bên dưới, phải nghiên cứu kỹ cách đổi xe trước khi đi. Cách sắp xếp đường đi rất hay, hình như không bao giờ phải thay xe quá ba lần mới đến được một địa điểm, và bản đồ thì được phát không tại chỗ bán vé và được dựng tại tất cả các miệng hầm.

Những đứa con cùng cha

 Tôi khám phá ra rằng tại một số nơi Paris rất giống Sài Gòn, khiến gây nơi tôi những hoài niệm rất bất ngờ. Một buổi chiều trời mưa, tôi che dù đi ở một phố nào đó mà tôi không nhớ, bỗng nhiên tôi thấy y hệt như tôi đang đứng chỗ ngã tư Lê Thánh Tôn với đường Tự Do, ngay trước quán La Pagode. Còn giống hơn là ngày ra khỏi tù cải tạo về Sài Gòn tôi đứng ngay chỗ góc phố đó, mà thấy như đang ở nơi xa lạ.

Đi vắng khỏi Sài Gòn mười ba năm kể từ năm 1975, khi quay về tôi ngẩn ngơ vì cái cảm giác “mất hết.” Sài Gòn không còn nữa, sau khi được liên tiếp “cải tạo,” mọi thứ trở nên xấu xí, tầm thường, mất cái thần sắc mà đô thị mến yêu ấy ngày xưa vẫn tỏa ra, như mùi hương bát ngát của một cây hoa, như vẻ duyên dáng của một người đàn bà. Không riêng Sài Gòn, từ sau năm 1975 cả miền Nam mất cái thần sắc ấy, mất nơi từng cá nhân con người, trong từng xóm làng, từng thành phố. Cái guồng máy gọi là cách mạng kia nó có biệt tài xoá đi rất nhanh cái mà tôi gọi là lớp men của sự sống vốn vẫn tồn tại nơi các xã hội lành mạnh, trong đó chứa đầy hơi hướng của tình người và của sự phát triển tự nhiên các khả năng tinh thần, tình cảm, mơ mộng và cần lao của con người. Nó xóa sạch không thương tiếc, khiến tất cả đều trần trụi, cắt đứt với quá khứ, cắt đứt với tương lai. Tôi đã về lại Sài Gòn đối diện với nỗi trần trụi ấy nơi đường Tự Do, nơi đường Lê Thánh Tôn, trước quán La Pagode, thấy đây không phải là Sài Gòn của ngày xưa nữa. Tôi có một người bác mà tôi rất yêu mến, năm 75 khi chào ông để đi cải tạo bác tôi vẫn còn khỏe mạnh minh mẫn, nhưng khi về gặp lại thì ông đã hoàn toàn lẫn, bác chào thằng cháu ngày xưa như một người xa lạ, không còn phân biệt được ai với ai. Đứng trước bác tôi, tôi cảm thấy lòng quặn đau, biết vĩnh viễn không còn cách gì có lại người bác ngày xưa. Sài Gòn cũng thế, đã già sụm và biến dạng đi không ngờ, và cũng đã đi vào cơn mê lẫn, lờ đờ nhìn tôi không còn nhận biết tôi là ai, cũng như tôi không còn tìm ra một ngôn ngữ chung nào để tôi và cái đô thị mến yêu ấy còn có thể trao đổi nhận ra nhau trở lại. Từ ngày còn ở trong tù, khi biết có một bài hát mới hát rằng “em ra đi nơi này vẫn thế” tôi đã cười và lắc đầu nghi ngờ tính chất chân thật của lời nói ấy, đến khi về đến tận “nơi này” thì tôi thấy không còn phải nghi ngờ gì nữa. Đứng giữa Sài Gòn mà tôi đã mất Sài Gòn. Tôi biết cảm giác đó không phải chỉ riêng tôi có. Vô số bạn hữu đã đau khổ, hụt hẫng, và phẫn nộ nữa, khi đối diện với một Sài Gòn xác xơ và trần trụi.

Nhớ ngày cuối tuần đầu tiên sau khi về tới Sài Gòn tôi đề nghị với mấy người bạn đến thăm: “Tụi mình xuống Sài Gòn bát phố chơi hè!” họ nhìn tôi ngạc nhiên như nhìn Từ Thức mới về trần. Thì ra đã lâu đã không còn cái món bát phố xưa cũ ấy nữa rồi, một người bạn tội nghiệp tôi vội giải thích: “Bây giờ còn phố xá gì đâu mà bát!” Dĩ nhiên phố xá thì vẫn còn đó, ý bạn tôi nói cái không khí xưa, cái tinh thần tình cảm và cảnh sinh hoạt làm ăn của đám thị dân cũ một thời đã làm nên Sài Gòn bây giờ đã biến mất hết rồi, đến đó thì chỉ thấy một nỗi trống rỗng mà thôi.

Chiều mưa Paris

Nhưng buổi chiều mưa hôm ấy tôi đã gặp lại Sài Gòn ở giữa Paris. Thì ra tôi cũng chưa mất hẳn Sài Gòn trên đời này. Tôi đã sống ở Sài Gòn bao nhiêu mùa mưa nhỉ? Chẳng còn nhớ là bao nhiêu, nhưng hình ảnh Sài Gòn dưới cơn mưa rạt rào thì ai đã sống ở Sài Gòn khó lòng quên được. Thời còn trọ học, trên căn gác học trò nhìn mưa rơi phơi phới trên những mái tôn, lòng dịu lại với không khí mát lạnh, nhớ xa xôi đến một khuôn mặt, một mái tóc, kết với không gian và âm thanh mưa thành những khoảnh khắc bất hủ của tình trai…Những đêm mặt đường Lê Lợi loáng nước, khoác áo mưa đi cạnh người bạn thân nghe tiếng nước chảy ồ ồ đang thoát xuống các lỗ cống, tìm một quán cà phê để cùng nhau bàn về các băn khoăn triết học vừa mới thu nhận từ giảng đường Văn Khoa. Sài Gòn mưa chợ Bến Thành, mưa trên tắc xi, xích lô, mưa lướt thướt các gánh hàng rong, mưa xì xào bí mật trong đám lá me, mưa từ quán nhậu nhìn ra đường đầy bong bóng nước trôi…Hình như Sài Gòn mưa ở lại trong lòng người nhiều và tha thiết hơn là Sài Gòn nắng. Những đêm mưa âm thầm đi trên đường phố hát nho nhỏ

Mùa thu đêm mưa
Phố cũ hè xưa

thì thấy các câu hát ấy viết về Paris đó vẫn hợp với tình và cảnh của Sài Gòn.

Buổi chiều mưa đó ở Paris, tôi che dù đi hơi lầm lũi thì thoáng thấy bên kia đường một cửa kính lớn trên có dòng chữ: Aux Ciseaux d’Art, cái này tôi đã thấy nhiều lần vào những năm xưa chỗ gần Tòa Đô Chính Sài Gòn đi về phía đường Tự Do, tôi tiếp tục đi mấy bước nữa thì quả nhiên gặp ngã tư, và tôi hoàn toàn có cảm giác đang đứng tại phố cũ hè xưa Lê Thánh Tôn với Tự Do, tôi sắp bước vào quán La Pagode để uống cà phê trong một buổi chiều mưa. Ảo ảnh, ảo giác hiện lên như trong một giấc chiêm bao. Nhưng tôi vẫn tỉnh để nhận ra rằng đúng Paris và Sài Gòn là những người anh em cùng cha khác mẹ, cái cảm giác quen quen tôi nhận thấy từ ngày đầu khi mới đến bây giờ tôi đã tìm thấy nguyên do. Người Pháp đã xây cất Sài Gòn với rất nhiều hình ảnh của Paris. Dĩ nhiên Paris đẹp đẽ rộng lớn hơn nhiều, nhưng những tác phẩm của cùng một tác giả (hay là những đứa con cùng cha) thì có những nét chung dễ nhận ra lắm. Cảm giác giống đến rất đột ngột, bỗng dưng đang đi tại một chỗ nào đó giữa Paris, cảnh vật và sự cảm nhận của tôi chớp một cái, lập tức tất cả biến thành Sài Gòn. Sự phù phép ấy diễn ra rất nhanh, có thể chỉ trong sát na, nhưng rất triệt để, tôi đã “về” lại Sài Gòn chớp nhoáng như một linh hồn từ cõi âm được xẹt về thăm cõi dương, nhìn thấy mọi cảnh trí mọi sinh hoạt quen thuộc mà mình hằng tham dự xưa kia. Đi giữa Paris tôi rất thường bị xẹt qua xẹt lại như vậy. Có lúc bỗng thấy xe mình đang chạy trên đường Lê Lợi chỗ bùng binh Nguyễn Huệ, tưởng như chỉ cần nhìn lên là thấy tòa nhà Quốc Hội ngay phía trước; có bữa thấy một góc phố nhọn y chang chỗ Võ Duy Nghi và Hàm Nghi, nơi Chợ Cũ bán thịt heo quay và xá xíu; một bữa tối đi ăn ở khu Saint Germain Des Prés đến khuya ngồi trên xe ra về, xe dừng lại chỗ đèn đỏ thì miệng không kềm được phải thốt lên: “Đây chính là ngã tư Lê Lợi với Pasteur, chỗ rạp Casino Saigon.” Những cơn lên đồng như vậy xảy ra luôn luôn, nhưng xúc động và sâu lắng nhất vẫn là chỗ quán Cái Chùa, có lẽ vì trời mưa, có lẽ vì tôi đang đi bộ, và cái nỗi niềm “phố cũ hè xưa” đang cơn thấm thía. Nơi đây không những tôi bắt gặp Sài Gòn mà còn bắt gặp chính tôi, gã thiếu niên của cuối thập niên 50, chàng thanh niên của thập niên 60, trong một buổi chiều mưa, đứng giữa Sài Gòn, đã nhìn thấy hàng cây lá bên đường ướt nước, mặt nhựa tung bọt trắng, người qua lại trong lớp áo mưa, và bên kia đường, chỗ gần tòa Đô Chánh, có tiệm may Aux Ciseaux d’Art. Tôi của buổi chiều nay giữa Paris trong cơn xuất thần của tâm cảm đang về thăm lại Sài Gòn và nhìn thấy tôi của ba thập niên trước đang đứng trước quán La Pagode, cái nào là âm cảnh, cái nào là dương gian? Không, không có sự phân chia như thế, tất cả chỉ là một thôi, qua một cái chớp mắt của thời gian. Sài Gòn – Paris, thập niên sáu mươi – thập niên chín mươi, tất cả gói ghém trong một chỗ mong manh nhạy bén nằm giữa sự sống của tôi, có khả năng phá tan tức thì sương mù của quá khứ để nhìn xuyên suốt như cái nhìn của thần thức sáng trưng nơi một kẻ sắp lìa đời.

Không biết một kẻ lớn lên tại thành phố Hồ Chí Minh từ sau 1975, hoặc một người ngoài Bắc vào sống tại đó cũng từ thời điểm ấy, nếu có dịp đi Paris thì có nhận thấy thành phố Hồ Chí Minh của họ có nhiều điểm giống Paris như tôi thấy không? Không chắc. Sự giống nhau giữa hai đô thị phải vừa ở kiểu mẫu kiến trúc, vừa ở khí hậu văn hóa, và cái sau bổ túc và quyết định cho cái trước. Đời sống văn hóa có tương đương mới tạo ra nét tương tự được. Nếu tiệm may thanh lịch Aux Ciseaux d’Art bên kia đường biến thành Cửa hàng May mặc quốc doanh, nếu người ta phóng uế vào các gốc cây bên đường và thi nhau lột vỏ cây đem về làm củi đun, nếu người ta mắc máy phóng thanh khắp các góc phố để cả ngày ra rả các khẩu hiệu tiến nhanh và tiến mạnh…, ở trong một thành phố Hồ Chí Minh như thế, tôi đoan chắc có đi Paris người ta cũng sẽ không nhận ra điểm tương đồng giữa hai thành phố đâu. Trái lại, chỉ nhận ra toàn cái xa lạ, như dương gian và âm phủ. Tôi đã hiểu vì sao ngày tôi ra tù tôi thấy Sài Gòn hoàn toàn xa lạ đối với tôi, mà ngày nay tôi lại thấy Paris giống Sài Gòn. Có lẽ nhờ những cảm nhận như thế người xa quê hương  mới có thể sống trên những vùng đất xa lạ của thế giới được. Xa lạ không sao, miễn là còn gần gũi với con người.

Phố cũ hè xưa

Phố cũ hè xưa là lời thơ của Cung Trầm Tưởng thường được hát trong bản nhạc Mùa Thu Paris, và có lội trong khu phố cổ của Paris như khu Marais thì mới thấy bốn chữ đó là tài tình. Nhà phố được xây cao quay mặt nhìn nhau hai bên những con đường hẹp, khiến con đường giống như một cái hầm dài, mà đáy hầm phải chia ra làm ba phần, giữa là lòng đường, hai bên là hè phố hầu hết lát bằng đá cắt ra thành từng phiến nhỏ. Dù được xây cất từ nhiều thế kỷ trước mang nét cổ xưa, kiến trúc ở đây trông vẫn bề thế, cao lớn và chắc chắn chứ không lúp xúp như những khu phố cổ Đông Phương kiểu như Hội An hay băm sáu phố phường của Hà Nội. Trong những căn phố đó là cửa hiệu, phần nhiều bán đồ mỹ nghệ, các món hàng cũng như cách trình bầy cố làm sao cho nổi lên cái cung cách xưa xưa. Đi trên hè phố ấy, nhẩn nha vào hiệu nọ hiệu kia, thì phải nhận rằng cái mà mình đang tiếp xúc với, mình đang đắm mình vào, không có tiếng nào diễn tả đúng hơn là mấy chữ phố cũ hè xưa. Phố và hè ở đây luôn luôn phải cặp đôi với nhau, phải làm chứng cho nhau rằng chúng đã cùng tồn tại qua biết bao sương nắng của thời gian và biến cố của lịch sử, và ngày nay vẫn còn giữ vai trò tích cực cho đô thị này. Ngày xưa là vương tôn công tử và thị dân, ngày nay là khách du lịch bốn phương đi trên các vỉa hè này, không có hè phố để chuyên chở người đi lại thì phố xá còn có nghĩa gì. Hè phố không phải là một lối để đi suông, (làm việc ấy đã có lòng đường) mà chính là nơi đi để nhìn vào các cửa hiệu, là hành lang để thực hiện việc la cà mua sắm, là nơi để ngắm nhìn nhau, quan sát cách phục sức của nhau, để biểu lộ một phong cách của xã hội. Phố và hè là một một trường sinh hoạt chung, cùng nương nhau mà sống còn để thực hiện nếp sống đô thị trải qua nhiều thế kỷ. Ngày nay phố đã cũ và hè đã xưa nhưng vẫn còn đó như một đặc trưng của Paris, nét xưa và cũ ấy đem lại biết bao vẻ lãng mạn cho đời sống đã mất rất nhiều thơ mộng giữa thời đại cơ khí, hàng hóa phong phú thừa mứa, với những siêu thị tân tiến rộng mênh mông. Vào với phố cũ hè xưa chúng ta vẫn tiếp tục sống cuộc đời hiện nay chứ không phải tìm đường vào quá khứ, như khi đi thăm những di tích là cái đã xong vai trò của nó rồi, bây giờ bày ra là chỉ để xem. Đi trên hè xưa và ghé vào những căn phố cũ chúng ta không có cảm giác mình đang đóng trò giả vờ làm người xưa để tìm một ít ảo giác hiếm hoi thoát ra trong chốc lát cuộc sống hiện tại, mà là làm công việc trộn lẫn cái hiện tồn với cái cổ xưa, để biết rằng chúng ta không bơ vơ trên bờ vực khi chiếc xe khoa học kỹ thuật đưa chúng ta đi quá nhanh và quá xa đến những nơi lạ hoắc không biết là chốn nào. Những phiến đá lát không phẳng phiu dưới chân, những bức tường nặng nề rêu phong, những cái cầu thang cuốn ngộ nghĩnh đưa lên tầng trên không còn thấy trong kiến trúc ngày nay…tất cả những cái đó như liều thuốc an thần nhắc nhở ta rằng đời sống luôn luôn là một tổng hợp giữa quá khứ và hiện tại, đừng có sợ hãi bơ vơ, các bạn vẫn trong vòng tay ôm của biết bao thế hệ và thế kỷ trước đây mà…Gọi đó là phố cũ và hè xưa, tức là xác nhận hơi hướng của quá khứ vẫn ra vào đâu đây, xin các bạn cứ tự nhiên thoải mái tự thể hiện cái con người thật của các bạn vốn là một tổng hợp phức tạp, vốn là nơi tàng chứa biết bao chuyện của tiền kiếp, xin cứ thong thả, ở đây không có tiến nhanh tiến mạnh đi đâu cả, ở đây không hề phá bỏ cái gì mà lưu giữ hết và trân trọng hết. Các bóng người tứ xứ qua đây hôm nay rồi cũng sẽ trở thành quá khứ, những cánh cửa dày, những căn nhà tối sẽ là những ống  kính và buồng phim ghi lại tất cả những cái áo thụng trắng vùng Trung Đông, những quần jeans áo thun và giày vải thể thao đến từ Mỹ, những đôi mắt đen thẳm dưới làn mi cong vút của xứ Ấn Độ…, để ít trăm năm sau khách qua lại nơi này vẫn man mác cảm thấy có một cái gì đó vẫn ra vào đâu đây…Sài Gòn đối với tôi sau mười ba năm cải tạo đáng lẽ phải thành một loại phố cũ hè xưa để tôi bắt gặp lại ít nhất hình ảnh của chính mình mươi lăm năm về trước chứ chưa nói đến thời nào xa xưa hơn, nhưng hình bóng cũ đã bay đi sạch trơn để chỉ còn lại các xác trần trụi. Phố và hè chỉ thành cũ và xưa khi nó tiếp tục lưu giữ một tinh thần thái độ nào đấy, mà quan trọng nhất là sự liên tục, chứ không phải chỉ là những vật vô tri được tính bằng năm tháng chất chồng. Khi đình chùa miếu mạo chỉ còn một thứ hương khói giả vờ, chỉ cốt để bán vé cho du khách vào xem, thì lập tức biến thành một các xác rỗng. Không gì thê thảm cho bằng di tích của một đất nước bỗng tắt mất đi cái hơi thở vẫn liên tục từ ngàn xưa để trở nên các ông phỗng vô hồn, không gì gây đau đớn hơn khi đọc trên vách chùa Cửa Võng có suối Giải Oan của Hương Sơn những câu khẳng định rằng chẳng ai giải được cái oan của con người ngoài sự đấu tranh của đảng cộng sản…Khi cái tinh túy của quá khứ bị lăng mạ thì còn mong gì phố cũ với hè xưa!

Quán cà phê Paris
Quán cà phê vỉa hè Paris

Đi dạo phố mỏi chân cần nghỉ ngơi uống một chút gì và làm vài công việc cần cho cơ thể thì vào quán cà phê, mà hầu như góc phố nào cũng có. Quán cà phê thường có một diện tích không lớn, gồm một cái quầy dài, dăm cái bàn bên trong và một số bàn đặt ngoài hè. Ngoài cà phê quán còn bán các thức uống khác, kể cả bia và rượu, và một ít thức ăn nhẹ. Vào quán, ta có thể đứng uống ngay tại quầy, ngồi vào bàn ở trong quán hoặc gọi thức uống ra ngồi ngoài đường mà nhâm nhi. Cà phê ở đây dĩ nhiên đúng là “cà phê Pháp,” không còn nghi ngờ gì như khi đọc các quảng cáo của những nhà buôn Mỹ và Việt ở vùng California để nhắc nhở khách rằng cà phê Pháp mới là cà phê thứ thiệt, uống mới đã, chứ không phải đã được biến chế lung tung để thành một thứ nước chua chua nhạt nhạt như cà phê Mỹ. Tách cà phê nhỏ xíu, nước đen sánh, gặp tay uống phàm thì chỉ ực một ngụm là sạch nhẵn, nhưng nếu biết thưởng thức cái thơm ngon của nó thì có thể nhấm nháp đốt thuốc lá hàng nửa giờ. Rượu và bia thì nhiều thứ, nhưng theo tôi đây không phải chỗ thích hợp để uống rượu và nếu uống bia thì nên uống bia “bốc” (sau 75 ở Sài Gòn gọi là bia hơi) để thưởng thức vị tươi ngon của bia mới đem từ nơi sản xuất về, không đóng chai đóng hộp gì cả.

  Uống đứng thì rẻ tiền hơn ngồi, nếu một cốc cà phê tại quầy trả tám quan thì ngồi tại bàn phải mười quan. Tôi có tật uống cà phê rất chậm, vì phải luôn luôn kèm theo mục thuốc lá, nên phải ngồi mà uống, nhưng uống bia tại quầy thì tôi cho cũng là một điều lý thú. Không phải vì đứng mà người uống phải có thái độ vội vã đâu, anh ta vẫn ung dung, tay cầm một cái “demi” (một ly bia hơi), lưng tựa vào quầy, mắt lơ đãng nhìn quanh, thỉnh thoảng đưa ly lên làm một tợp rồi đặt xuống mặt quầy. Khi đứng uống như thế tuy bạn không vội nhưng vẫn có vẻ không phải định nhậu nhẹt lâu dài, chỉ là ghé qua làm một ly cho đỡ cơn khát, vẫn có thể quay qua trò truyện vài câu mưa nắng với người đứng cạnh, rồi khi ly đã cạn, lặng lẽ bước ra. Ở Pháp cũng cấm hút thuốc ở nơi hàng quán, nhưng riêng quán cà phê thì không, chắc vì người ta cũng thấy chỗ vô lý cà phê mà không có thuốc lá. Ngồi uống ngoài đường tôi nghĩ có thể không thích hợp với một số người cho  ăn uống là việc riêng tư kín đáo không muốn phơi ra với bàn dân thiên hạ, nhưng với một số người khác là một cái thú có thể thành ghiền. Với đường phố anh có thể có hai thái độ, một là nhập vào dòng người để di chuyển, hai là ngồi một chỗ đễ nhìn mọi người di chuyển. Cách thứ nhất là bát phố, cách sau là uống cà phê vỉa hè. Hai thái độ một động một tĩnh ấy thật ra chỉ là hai cách thế khác nhau để tham dự vào cuộc sinh hoạt náo nhiệt của phố phường, một công việc mà cư dân của các đô thị lớn hầu như ai cũng có thời kỳ rất ưa thích. Ngày xưa ở Sài Gòn loại quán có ghế ngồi ngoài đường không nhiều, chỉ vài nơi như Thanh Thế, Thanh Bạch, Kim Sơn, nhưng cũng lắm người rất mê ngồi nhâm nhi ngắm kẻ lại người qua. Paris thì phố nào cũng có, lúc nào mình cũng có cơ hội dừng chân ngồi ngắm thiên hạ sau khi đã đi chán cho thiên hạ ngắm mình. Thực ra người ngồi uống cà phê vỉa hè không chắc đã ngắm ai, đó chỉ là thái độ tham dự, họ ngồi trước cốc cà phê, tay cầm điếu thuốc, trước mặt là trời xanh mây trắng và cuộc đời đang trôi chảy, họ yên tâm biết điều đó, mắt lơ đãng không đặt rõ rệt vào đâu mà vẫn biết là hơi ấm của đô thị vẫn đầy đủ chung quanh. Cảnh tượng trước mắt là một cần thiết đối với họ, dù là phố đông hay phố vắng, trời nắng hay trời mưa (mưa thì phải ngồi dưới mấy cây dù). Họ nói là ngồi ngoài đường phố “vui” hơn, cái vui ấy chính là được gia nhập vào dòng sống đang ào ạt quanh ta vậy.

Quán cà phê là nơi giới văn nghệ thường lui tới, đó là truyền thống của Pháp từ xưa, và cũng thành truyền thống ở những nước chịu ảnh hưởng văn hóa Pháp. Những người viết lách, những người vẽ vời thường cần cảm hứng và một môi trường sinh hoạt thích hợp cho họ, quán cà phê đáp ứng được yêu cầu ấy. Có lẽ vì đó là nơi kinh doanh mà ít có vẻ kinh doanh nhất, quán cà phê là nơi luôn có không khí “văn nghệ,” vì thưởng thức cà phê là một việc nhiều dáng vẻ tinh thần hơn là vật chất, uống một cốc cà phê nóng thơm ngon chỉ để đầu óc thêm sảng khoái chứ không vì no béo hay dinh dưỡng. Nhưng có lẽ cái không khí văn nghệ nơi các quán cà phê là do người nghệ sĩ đến uống ở đó đem lại hoặc tạo ra hơn là do chính việc bán cà phê. Nếu chủ quán có chút máu nghệ sĩ, biết kính trọng người tài, biết chiêu hiền đãi sĩ (ở đây có nghĩa là biết cho những người nghệ sĩ nghèo mắc nợ) thì quán sẽ dễ trở thành nơi hò hẹn của những người viết văn, làm thơ, vẽ tranh…Người của nghệ thuật và tư tưởng thường có nhu cầu thoát ra khỏi cái không khí quen thuộc của gia đình để tìm những nơi có tần số rung động thích hợp với họ hơn để họ nạp lại năng lượng sau một hồi sáng tác, và quán cà phê là một trong những nơi như thế. Ở đó không hẳn là họ đến với quần chúng, mặc dầu là nơi công cộng. Họ đến để hưởng cái không khí do chính sự có mặt lâu ngày của họ và bạn bè họ đã tạo ra, để nói về những gì họ sáng tác hay dự định sáng tác cho những người nghe hiểu họ, và cũng để nghe những điều như thế từ phía bạn bè. Các cọ xát sẽ làm họ phong phú hơn. Hương cà phê sẽ làm họ tỉnh táo và cảm hứng hơn. Môi trường ấy sẽ giúp họ thêm tự tín. Quán cà phê là nơi khai mở sự sáng tạo cho họ nhiều hơn là những bữa cơm êm ấm ở gia đình thường chỉ làm tròn đầy một cảm giác thỏa mãn hơn là tạo ra sự thao thức, những tranh luận gay go làm đầu óc họ sắc bén hơn là sự chìu ý dễ dàng để vui lòng nhau.

Quán cà phê Les Deux Magots

Ở công trường Saint-Germain-des Prés có quán Les Deux Magots được gọi hẳn là “Quán cà phê văn học” (Café littéraire). Từ hậu bán thế kỷ mười chín quán này đã đóng một vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa của Paris, với những Verlaine, Rimbaud, Mallarmé lui tới gặp gỡ nhau. Thời nay – tức là trong thế kỷ này – khách quen của quán là André Gide, Picasso, Prévert, Hemingway, Sartre, Simone de Beauvoir…Quán cà phê văn nghệ thì trên thế giới này chẳng thiếu gì, nhưng một cái quán có truyền thống như Les Deux Magots thì chính nó đã vượt khỏi quá xa chức năng “quán” của nó để thành một nơi linh địa cho các thiên thần chuyên lo về việc văn chương nghệ thuật. Có lẽ Paris sẽ giữ nó tồn tại lâu dài trong tương lai với tư cách là một nơi  bán cà phê, nhưng đã từ lâu ai cũng hiểu nơi đó được xem như một cái đền thờ phụng các sinh hoạt tự do của tinh thần và của sự sáng tạo, mà nước Pháp đã và đang có cái hãnh diện đi tiên phong cho thế giới.

Ngồi trong quán đó tôi bất giác có một cử chỉ  y hệt như khi vào quán chả cá Lã Vọng ở Hà Nội năm nào, là đưa mắt nhìn quanh. Tại quán Lã Vọng tôi nhìn và tự hỏi Thạch Lam và các bạn văn của thời ông đã từng ngồi ở chỗ nào. Quán Lã Vọng đã chết đi sống lại. Cái mà tôi tìm đã vĩnh viễn thuộc về lịch sử. Tôi tìm hình bóng của những người làm văn nghệ của đất nước tôi một thời đã bị tru di và xóa sạch hết hơi hướng tại chính cái nơi họ đã sống, đã viết, đã làm nên những trang văn học vào hạng rực rỡ nhất của lịch sử nước tôi. Tại đây, Les Deux Magots, phản ứng tự nhiên của tôi là cũng hình dung xem Sartre, Hemingway…đã ngồi chỗ nào, nhưng đồng thời tôi cũng ý thức rất rõ rằng tuy họ đã tới và đã ra đi vĩnh viễn nhưng hình bóng các vị vẫn sinh động nơi đây, vì cái tinh thần tự do của các vị vẫn được thừa kế, phát triển từng giây phút bởi các lớp người đến sau. Từ quán cà phê này, hào quang của các vị phát ra không những chỉ soi sáng cho thành phố Paris hay cho nước Pháp, mà cho khắp loài người.

Quán cà phê là hiện tượng phổ biến của Paris, nó gắn chặt với sinh hoạt của người dân, và qua đó cho thấy tính chất và sở thích của họ. Họ có nhu cầu “ngồi quán,” một thói quen vừa xã hội vừa cá nhân, vừa tinh thần vừa vật chất. Vào quán là để uống hay ăn một chút gì, nhưng có thật là họ đang đói hay khát để làm việc đó không? Chưa hẳn. Ăn uống lắm khi chỉ là một cái cớ để họ tham dự vào một không khí mà họ thích. Người dân Sài Gòn trước kia, lui về mãi tận thời Pháp thuộc cho đến thời sau này, cũng đã có thói quen ra ngồi “quán nước,” từ sáng sớm tinh mơ đã có người đến quán kêu cà phê rót ra dĩa xì xụp uống, nói với nhau những chuyện mưa nắng. Quán nước cũng là môi trường để trao đổi chuyện áp phe, giá cả, hàng hóa. Gọi là “quán nước” theo lối người dân Sài Gòn là đúng, vì thực chất đó chỉ là các quán hủ tiếu và cà phê nước ngọt của mấy chú ba Tàu thường lập ở những chỗ góc phố. Có lẽ đến thời Việt Nam Cộng Hòa mới bắt đầu có quán thực thụ chuyên bán cà phê, và mới bắt đầu thấp thoáng một chút “quán cà phê văn nghệ” nơi đó giới văn nghệ sĩ thường lui tới. Hình như phải có một nền văn nghệ, phải có một tầng lớp văn nghệ sĩ rồi thì sau đó mới xuất hiện cà phê văn nghệ được. Đó là một giới ưa la cà, ở đâu cũng vậy. Và cũng từ khi họ la cà tại một quán nào thì nơi đó mới mang dáng vẻ tinh thần, văn chương, nghệ thuật vốn là sinh hoạt chính của họ. Không biết nhân loại bắt đầu biết uống cà phê vào năm nào và xuất xứ món đó từ đâu, nhưng tôi có cảm tưởng chính nước Pháp, hay đúng hơn, Paris, đã biến việc uống thức ấy thành một nếp sinh hoạt, một phong cách văn hóa, và phổ biến nó ra khắp thế giới.  

Một chút lịch sử về quán cà phê Sài Gòn

Tôi vừa ở trong một cơn lẫn lộn hiện tại và quá khứ, đến với Paris mà nhớ tưởng lung tung về Việt Nam. Tôi tự nhủ thôi hãy ngưng nghĩ về Việt Nam, hãy kể chuyện bên Tây thôi, thì một người bạn đến chơi, ném cho tôi một tờ báo: “Thấy ông đang viết về quán cà phê, tôi mang cho ông tờ báo này.” Một tờ báo Xuân năm nay (Đinh Sửu, 1997) từ Việt Nam, trong đó có bài Các quán cà phê đầu tiên của Sài Gòn. Một tài liệu rất thú vị, liên quan mật thiết đến đề tài tôi đang viết. Xin trích vài đoạn:

Có hai quán cà phê mà tên hiệu và địa chỉ được nói đến trong các tờ Courrier de Saigon (Người đưa tin Sài-Gòn), Illustration (Báo ảnh), và trong Annuaire de la Cochinchine (Niên giám Nam Kỳ), tất cả đều ra trong năm 1864. Đó là quán cà phê Lyon (Café Lyonnais) và quán cà phê Paris (Café de Paris). Hai quán cà phê này tất phải có lâu trước năm 1864 (…).

Quán Café Lyonnais, theo tờ Illustration ra ngày 23.4.1864 thì nằm tại đường “Gouvernement” gần ụ chiếc chiến hạm Primauguet. (…) Quán cà phê này không còn thấy ghi trong tập Thời sự cẩm nang Vade mecum 1905. Có lẽ nó được thay thế bởi quán cà phê Café de Marine (Cà phê Hải Quân) dễ lui tới hơn và cũng ở gần đó tại số 3-5 Công trường Rigault de Genouilly (Công viên Du lịch bến Bạch Đằng ngày nay).

Còn về quán Café de Paris, theo “Niên giám Nam kỳ, năm 1864, trong đó có Câu lạc bộ Thương mại (Cercle Commercial), ở tại bến sông, góc đường số 16 (Catinat = Tự Do = Đồng Khởi) mà chủ nhân là Ô. Bonnerieux. Theo tờ “Courrier de Saigon” ra tháng 3, năm 1864, thì sứ bộ Phan Thanh Giản có ghé Sài Gòn trước khi về Huế để trình lên vua Tự Đức kết quả chuyến đi Pháp năm 1863 trong sứ mạng thương thuyết xin chuộc lại ba tỉnh miền Đông đã nhượng cho Pháp và khi đó vào ngày 19, “Phan Thanh Giản và hai vị đồng sự không có lọng che và tiền hô hậu ủng như nghi lễ đã quá bộ đến thăm quán Café de Paris, nơi đây họ có dịp gặp lại một số sĩ quan Pháp, một cách thăm viếng tế nhị những người mà họ còn chưa gặp…” (Anthologie franco-indochinoise, VI, 4:19)

Quán cà phê này còn lưu lại dấu vết mãi đến năm 1905, ở tại đường Paul Blanchy (Hai Bà Trưng), số 83, chủ nhân tên là Vital (Theo Thời sự cẩm nang 1905).
(Trích báo Văn Hóa Xuân Đinh Sửu, Sài Gòn, trang 51).

Thì ra Sài Gòn có quán cà phê sớm đến thế! Dĩ nhiên những quán cà phê sớm sủa này là nơi lui tới của các “ông tây bà đầm” chứ chưa dính dáng gì đến quần chúng Việt Nam thời ấy có lẽ chưa được phép đặt chân đến những chốn này, và chắc cũng chưa biết uống cà phê cũng như quen với sinh hoạt theo lối tây phương. Nhưng hương cà phê đã bay trong không khí Việt Nam, và các quán Café Lyonnais, Café de Paris đã như là những cánh tay nối dài của Paris tới đây, đi tiên phong làm đại diện cho nền văn nghệ nước Pháp đến đất Việt Nam, trước khi tiểu thuyết, ca nhạc, hội họa, sân khấu…được chính thức đem đến giới thiệu tại đây. Vô tình những quán ấy đã đóng vai trò sứ giả văn hóa, đến rất sớm để đặt nền móng trên đất nước này về một sinh hoạt mà xem chừng nhiều thế hệ Việt Nam về sau, cho mãi đến tận bây giờ, đã tỏ ra thích thú, thậm chí ghiền, là cái việc uống cà phê. Hậu duệ các quán cà phê đầu tiên này tại Sài Gòn mang cung cách Paris còn thấy tới thời điểm 1975 là La Pagode (được Việt hóa thành Cái Chùa), Givral, Impérial (Hoàng Gia), Brodard, đều nằm trên đường Tự Do. Đó là các quán hạng sang, ly tách muỗng nĩa đều sáng trưng theo kiểu Pháp, cung cách “xẹc via” phần nào theo tiêu chuẩn quốc tế, và cái “gu” cà phê cũng khác với những quán cà phê theo lối Việt Nam.

Hình minh họa

Sự việc ba vị sứ thần của sứ bộ Phan Thanh Giản “đi uống cà phê” tại quán Café de Paris của Sài Gòn năm 1864 thì thật là một tài liệu lý thú và cảm động. Rõ ràng đó là một hoạt động ngoại giao, quán được chọn để một số nhân vật Pháp Nam được gặp nhau, “một cách thăm viếng, tế nhị những người mà họ còn chưa gặp.” Đó là một cuộc gặp gỡ thuần túy xã giao, hay có vấn đề gì cần được thảo luận thêm, một cách không chính thức? Dù sao thì chắc chắn ba vị Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản là những ông quan cao cấp đầu tiên của triều đình Việt Nam đi vào một quán cà phê trên đất Việt Nam, mở đầu cho một sinh hoạt mà bao nhiêu thần dân đất nước của quí vị sẽ say mê tiếp tục trong suốt một trăm mấy chục năm sau. Thời gian ở Pháp trong năm 1863, các vị có được người Pháp mời đi đến các quán cà phê Paris hay không? Điều này không thấy nói tới trong Tây Hành Nhật Ký của Phạm Phú Thứ, mặc dù trong tác phẩm ấy cụ Phạm ghi rất kỹ những chuyến thăm viếng tại kinh thành Paris. Nhưng trong Tây Hành Nhật Ký chúng ta thấy tác giả đã Việt hóa rất nhiều thuật ngữ của phương Tây về chính trị, quân sự, tôn giáo, kinh tế... Riêng về món cà phê tác giả đã chế ra hai từ: một, phiên âm café thành “ca-hòe”; hai, Việt hóa café thành “trà đậu”, tức là một loại hạt (như hạt đậu) được biến chế thành thức uống (như trà). Hai tiếng này ngày nay không còn ai dùng, nhưng chắc chắn đó là hai thuật ngữ đầu tiên của tiếng Việt để gọi món cà phê.

Nước Pháp và nghệ thuật

Một người Việt Nam lần đầu đi đến Pháp có thể mang hai tiên kiến: hoặc từ nước Việt Nam nghèo nàn lạc hậu cựu thuộc địa, trông chờ hình ảnh một “mẫu quốc” rất cao sang hoàn hảo; hoặc từ một nước phát triển khác, phần nhiều là Mỹ, với một số tiêu chuẩn và hình ảnh về cuộc sống mình đang có, để so sánh. Cả hai thái độ đó đều khiến cho cái nhìn nước Pháp bị khúc xạ, mất đi sự trung thực. Thực ra đây chẳng phải là nơi tuyệt đối cao sang như chờ đợi, hoặc là nơi để đọ sức về mức độ tân tiến và giàu có. Nước Pháp, Paris, tự bộc lộ mình như một bông hoa quí phái hiếm có với tất cả giá trị riêng biệt của nó, đòi hỏi một thái độ và trình độ thưởng thức thích hợp.

Ngay về địa lý nước Pháp cũng đã có một “ngoại hình” đẹp, đó là  một đất nước có hình thể cân đối đầy đặn. Trong cái hình lục giác rất đều ấy, sông núi, đồng bằng, bờ biển phân bố hợp lý và mỹ thuật, hình như trong thiên nhiên tạo hóa đã muốn tạo ra ở đây một tác phẩm ưu tú và cũng đặt vào đấy một giống dân biết sống như thế nào cho phù hợp với cảnh trí và tài nguyên mà mình có. Có đến một số nước Âu châu như Bỉ, Hòa Lan, Đức…mới thấy rằng đồng quê của Pháp có một vẻ đẹp đặc biệt, rất nhiều nơi phong cảnh cứ như một bức họa, không phải loại tranh vẽ tầm thường mà là danh họa, được vẽ bởi tay họa sĩ bực thầy. Đó chẳng phải hoàn toàn là sự tình cờ của thiên nhiên, mà còn do trong khi cày cấy trồng trọt và xây dựng nông trang, người Pháp đã mang cả khiếu thẩm mỹ vào đất đai của mình. Họ rất xứng đáng là người thừa hưởng một trong những mảnh đất vào hạng đẹp nhất của trái đất này.

Trường Quốc gia Âm nhạc (Académie Nationale de Musique)

Hình như đối với người Pháp nghệ thuật không phải là một môn riêng biệt cao vời chỉ của một thiểu số, mà với họ, sống là nghệ thuật. Đền đài cung điện rực rỡ huy hoàng, các tác phẩm nghệ thuật danh tiếng, phát huy đến tột đỉnh tài năng và khiếu thẩm mỹ của người Pháp, cái đó thì đã dành. Trong cuộc sống thường, từng con đường, từng góc phố cho đến làng mạc xa xôi đều có sự cố công để làm nên vẻ đẹp. Không bao giờ người Pháp xây dựng một cái gì mà chỉ nghĩ đến khía cạnh thực dụng của nó, họ không thể chỉ vì sự thuận tiện mà dựng nên những hình ảnh thô thiển. Tinh thần Pháp là tổng hợp của cái tốt và cái đẹp, một công trình mà thiếu một trong hai yếu tố đó thì xem như chưa hoàn chỉnh. Sự ăn, mặc của họ cũng thế. Cái mà người ngoài cho là “kiểu cách” thì chính là nghệ thuật của họ đem vào sinh hoạt hàng ngày vậy. Một bữa ăn mà phải tuần tự uống ba thứ rượu (khai vị, rượu chính thích hợp với thức ăn, rượu thơm uống sau cùng để hoàn chỉnh dư vị của bữa ăn) thì đối với ta rắc rối quá, nhưng với cái lưỡi tinh tế và với quan niệm đưa việc ăn uống lên hàng nghệ thuật thì đấy chỉ là những quan tâm lựa chọn bình thường và bắt buộc. Sự lựa chọn trong cách phục sức cũng vậy. Tại sao Paris nổi tiếng về kiểu mẫu quần áo và đồ trang sức? Vì người Pháp cho rằng quần áo chính là chỗ để thể hiện vẻ đẹp một cách thiết thân nhất của con người, thân thể con người vốn đã là một tác phẩm đẹp rồi, việc phục sức cho nó dĩ nhiên phải dựa vào một quan niệm thẩm mỹ linh động luôn luôn đổi mới để đáp ứng cái nhu cầu thể hiện vẻ đẹp vốn mong manh và không có giới hạn. Họ đã đưa nghệ thuật trang sức và may mặc lên một trình độ rất cao, đến độ làm mẫu mực cho cả thế giới. Nếu dân tộc ấy không quan tâm đến cái đẹp và không biết làm nên cái đẹp thì làm sao đạt được danh vị ấy, và làm sao Paris từ bao thế kỷ vẫn là thánh địa cho bao nhiêu người làm nghệ thuật khắp nơi trên thế giới tìm về hoặc hướng về?

Trong sân viện bảo tàng Louvre

Ngay trong môn đá banh, mục đích của cuộc tranh tài của hai đội là đưa trái bóng nhiều lần tối đa vào khung thành phe địch, nhưng người Pháp phải thực hiện nên cái đẹp nữa trong quá trình dẫn dắt trái banh. Bóng đá Pháp thuộc trường phái hoa mỹ, có khi kém hiệu năng, nhưng ở những thời kỳ họ kết hợp được hiệu năng và hoa mỹ (cái tốt và cái đẹp) đến trình độ cao nhất thì thế giới được thưởng thức những tác phẩm tuyệt vời về môn bóng tròn. Đọ tài quân sự, kinh tế cũng như thể thao với người láng giềng giỏi dang và thực dụng là nước Đức, Pháp thường bị thua, nhưng người Đức vẫn phải ngả mũ trước vẻ xinh đẹp về mọi phương diện của nước Pháp.

Kẻ tạo vẻ đẹp cho đời được gọi là nghệ sĩ. Nước Pháp là một nước nghệ sĩ, và Paris là nơi kết tinh nghệ sĩ cao độ. Đến thành phố đó, ta cảm thấy có một cái gì thoáng đãng vượt lên trên chuyện áo cơm, vượt lên trên cả cái nghèo, khi nắm bắt được nó bỗng nhiên chúng ta thấy đời sống nhẹ nhõm đáng yêu bội phần. Ấy là cái thần của thành phố này, nó lãng đãng khắp nơi mời mọc ta, khuyên giải ta rằng trên đời này có một điều rất quan trọng không nên quên, đó là cái ĐẸP. Cả Paris như một ngôi đền thiêng thờ phụng từ cái đẹp rất thượng giới của tư tưởng sau các bức tường đại học đến cái đẹp trần thế của một cô gái đứng đường, từ các tác phẩm bất hủ cổ kim trong điện Louvre đến các bức vẽ của những nghệ sĩ vô danh bên bờ sông Seine… Mọi thứ đều được cư xử tôn trọng trong vương quốc ấy. Hãy cùng nhau đến khu Montmartre…

Montmartre: ngôi chợ (trên) trời

Trước hết lên thăm nhà thờ Sacré Coeur, phải leo lên những bực cấp rộng và dài dằng dặc mới đến nhà thờ ở đỉnh đồi. Đó là những bực cấp đi lên vui nhất thế giới, ta gặp trên đó vô số thanh niên nam nữ đang ngồi chơi bất kể vào thời khắc nào trong ngày. Họ nhìn xa xăm ra thành phố trải dài dưới chân đồi, ban ngày nhìn nắng nhảy múa, ban đêm nhìn đèn và sao nhấp nháy, họ chia nhau điếu thuốc, họ trò chuyện to tiếng hay thủ thỉ, họ hôn nhau…Đám người ấy luôn luôn có đấy như một hình ảnh bất biến, gắn liền với cảnh trí nhà thờ và báo hiệu cho cái không khí đặc biệt của Montmartre mà sau khi thăm nhà thờ, ta sẽ ghé qua ngay trên khu đất bên cạnh. Tại sao họ đến và ngồi đó? Đơn giản chỉ là “ngồi chơi,” nhưng nơi đó có một cái gì đó thu hút họ, và sự hiện diện của họ ngược lại cũng đem lại một không khí không bao giờ có trong đời thường, vừa trần tục vừa thượng giới, vừa là của tuổi trẻ hôm nay vừa là cái thanh xuân bất biến của bao đời người trẻ tuổi đã lui tới chốn này. Họ chỉ ngồi chơi, không vẽ tranh không ca hát, nói chung không làm một hình thức nghệ thuật nào, nhưng đám người ấy toát ra một vẻ nghệ sĩ miên viễn rất lạ, tuồng như chỉ sự ngồi chơi của họ trên các bực cấp nhà thờ ấy đã là một hành vi nghệ thuật, đã là một chất men cần thiết cho bầu khí quyển riêng biệt của hành tinh Montmartre.

Từ bên hông nhà thờ ta băng ngang vài con đường và bỗng dưng đã thấy mình đang ở giữa một thế giới khác. Một khu phố xá vây quanh một miếng đất vuông vức mỗi chiều độ vài trăm thước trong đó che lều bán tranh và nghệ phẩm, kê bàn để nhậu nhẹt ăn uống, và đặc biệt la liệt là các khung giá vẽ của các họa sĩ. Người đi như trẩy hội. Đúng Montmartre là một loại hội hè thường trực bất kể ngày đêm, vui không thể tả. Đến đó tinh thần của ta sẽ luôn  luôn hớn hở như khi tuổi nhỏ được sống trong ngày Tết. Tết vui vì đang trong không khí chớm sáng tạo của mùa xuân. Montmartre vui vì bao trùm một không khí sáng tạo bất diệt, với một đám đông người không dứt, lượn tới lui, ăn nhậu, mua sắm, xem tranh và vẽ tranh… Đó là một chốn đào nguyên quanh năm không có buồn phiền, vì vào đây người ta bắt được và đắm vào niềm phơi phới của vẻ đẹp đang trở thành. Người ta vẫn buôn bán, vẫn mặc cả thêm bớt, vẫn ăn nhậu, nhưng đây không phải là đời thường. Tản Đà ngày xưa muốn bưng thơ lên chợ trên trời bán cho tiên, thì đây chính là một cái chợ như vậy, nhưng không có phân biệt người phàm và tiên, tất cả vào đấy đều biến thành tiên trong một khoảnh khắc sống thật vui. Tất cả màu sắc tục lụy vẫn nguyên đó, với rượu và bia, các món ăn nấu thơm lừng, với hàng hóa và phòng đổi tiền, nhưng tất cả như là đồ mã, mọi sự diễn ra như trong ngôi chợ âm phủ, như là không thật, vì như có một loại ma túy trong không khí làm người ta vào một cơn vui sướng lâng lâng. Nếu trong đời sống thực tế khi nói đến chuyện văn chương nghệ thuật người ta thường cho là chuyện phù phiếm thì lạ thay khi vào đây, nghĩ tới cuộc sống thực của ta “ở dưới trần” với bao hệ lụy của nó thì ta lại có cảm giác đó mới là những chuyện phù phiếm, và chỉ có cái không khí ngây ngất quanh đây mới là thực. Ta đang thực tập cái kinh nghiệm Trang Tử là bướm hay bướm là Trang Tử đây chăng?

Thì ra trên đời vẫn có những nơi bầu không khí đã nhuốm đầy chất cảm hứng do đã cô kết lâu đời phong cách của biết bao lớp người sáng tác. Họ tụ về nương nhờ vào nơi đó để tự thể hiện mình. Tinh anh càng phát tiết càng làm dày đặc thêm cái màu sắc thiêng liêng của nơi mình nương náu để sáng tạo. Montmartre giống như các đền miễu được nhiều người đến cúng vái thờ phượng. Càng thiêng càng nhiều người cúng vái, và càng nhiều người cúng vái thờ phượng thì càng thiêng. Chất nghệ sĩ của nước Pháp đã chọn Paris, và Paris đã chọn nơi này làm nơi tập họp và trao đổi sự sáng tạo hội họa với cung cách hồn nhiên, dân giã nhất. Người nghệ sĩ vô danh mang giá bút đến đây để trắc nghiệm mình, nơi đây không có trường ốc thi cử mà chỉ có sự sáng tạo đích thực và tự do, và cũng là nơi áp dụng một qui luật đào thải nghiêm ngặt. Bao nhiêu bực đàn anh tài hoa danh tiếng đã qua đây như anh ta ngày nay, đã cùng bao lớp người vô danh khác tạo nên một sức sống bàng bạc của nghệ thuật. Khách đến đây cảm nhận sức sống ấy ít hay nhiều tùy theo căn cơ của mình, nhưng đều biết rằng đây là một nơi khác thường, các tế bào của ta mách bảo chỗ này là một bầu khí quyển lạ, không giống với cái thế giới công việc và cơm áo hàng ngày của mọi người.

Khu Montmartre với nhà thờ Sacré-Coeur bên cạnh       

Đi vòng vòng xem các họa sĩ vẽ tranh, Lộc bảo tôi:

“Bọn mình đi chơi với nhau đã nhiều nơi, nhưng chưa bao giờ mình cảm thấy một nơi nào vui như thế này. Mà thực ra thì nó có gì đâu, một mảnh đất, một khu phố bình thường, tầm thường, đâu có gì là hào nhoáng lạ lùng, thế mà cái vui hình như vô tận. Chung quanh toàn là người tứ xứ…”

Lúc ấy tôi cũng thấy thế mà không hiểu tại sao. Dần dần  tôi hiểu đó là lúc chất nghệ sĩ nơi Lộc rung động với Montmartre, giống như con cá tìm về được dòng suối xưa cũ của mình. Có một dòng suối vô hình đang chảy ồ ạt quanh đây, nó không thuộc vào một địa hình địa lý của riêng một xứ sở mà là chung của cả trái đất, người xứ nào cũng mong đến tắm trong ấy. Người tứ xứ đến đây giống như đi hành hương tôn giáo. Nhưng nếu hành hương tôn giáo là đi tìm quá khứ để sống lại kỷ niệm về một phát kiến tâm linh đã qua, thì Montmartre là một nơi để đắm vào một nguồn sáng tạo đang trở thành. Nơi đây là một sự trở thành mãi mãi, cảm hứng mới mẻ từng phút từng giây. Vui là vì vậy. Tâm hồn sẽ vào trong cơn phơi mở không ngừng, không phải tìm về một cái gì đã chết.

Cả trăm họa sĩ đang làm việc quanh đây, thuộc nhiều quốc tịch, Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Việt Nam… Một số có cửa hàng nho nhỏ bày tranh của mình, nhưng phần đông đều ở ngoài trời, với dụng cụ gọn nhẹ, gồm một giá vẽ, vài cái ghế xếp, một cây dù che mưa nắng và đồ lề cần thiết như giấy, cọ, màu… Họ “bày hàng” để bán một món hàng vô hình là tài năng của họ, nó sẽ trở thành hữu hình một khi họ và khách hàng đã thuận mua vừa bán. Đó là những người vẽ tranh chân dung. Trong vòng trên dưới nửa giờ họ sẽ vẽ xong chân dung của khách hàng ngồi ngay trước mặt làm mẫu, với giá thỏa thuận trước, trung bình khoảng hai trăm quan một bức cỡ 60 x 40 cm. Vì làm nhanh, lấy tại chỗ nên hầu hết các bức họa được vẽ bằng chì và phấn. Chân dung cũng đủ kiểu, có người sở trường vẽ chân phương theo lối truyền thần, có người lại vẽ theo cách ký họa, chỉ chấm phá ít nét linh động tung hoành, lại có những bức theo lối hý họa, thể hiện một khuôn mặt theo những đường nét dí dỏm nhất mà họa sĩ có thể nhìn ra nơi người khách… Họ cũng chào mời khách như bất cứ một người bán hàng nào, và họ cũng nói thách, và khách cũng trả giá, mọi cái y như cảnh mua bán “dưới trần gian,” chỉ có khác là sau khi giá cả xong xuôi, khi họ bắt đầu “bán” tài nghệ của họ thì tất cả đi vào một thế giới khác, thế giới của sáng tạo. Lúc bấy giờ tương quan giữa người họa tranh với khách hàng không còn là người bán và người mua, mà là giữa nghệ sĩ và người mẫu. Đứng xem họ làm việc mới thấy sự nhọc nhằn của sáng tạo. Không giống như những thợ vẽ chân dung từ một bức ảnh, chỉ sao chép sao cho thật giống những gì đã in trên giấy, trước mặt họ là một người sống với tất cả sự linh động của nó trong từng giây phút trôi qua, họ phải nhìn và nắm bắt cho được cái gì là đặc trưng của người ấy trong đường nét cũng như trong tinh thần thể hiện ra mặt giấy bằng chì đen phấn trắng. Cho dù hành nghề đã nhiều năm, mỗi ngày vẽ cho bao nhiêu người, nhưng mỗi khi cầm bút bắt đầu một bức chân dung thì đối với người họa sĩ, đó vẫn là một việc làm hoàn toàn mới mẻ, chưa tiên đoán được kết quả. Họ luôn luôn đứng trước cái vực thẳm của chuyện thể hiện được hoặc không thể hiện được hình ảnh của đối tượng trước mặt. Họ đối diện thường trực với nỗi thách đố đó, và chỉ giải quyết được bằng tài năng và cảm hứng của chính họ ngay trong lúc đó mà thôi. Khi vẽ, người họa sĩ biến thành một người khác, không giống với con người trước đó mấy phút đã mặc cả với khách hàng từng đồng, và cũng không giống con người sau đó khi đã vẽ xong đưa tay nhận tiền của khách. Mặc cả và nhận tiền là việc của đời sống. Vẽ là nghệ thuật. Đứng trước giá vẽ, họ quên hết chung quanh, ngưng thần quan sát đối tượng, chuyển cái cảm nhận bằng thị giác ấy thành ảnh tượng của chính mình rồi đưa  xuống bàn tay cầm bút và ghi lên giấy, quá trình ấy không lúc nào giống lúc nào, nó luôn luôn mới như mỗi hơi thở vào ra trong phổi làm nên sự sống của người nghệ sĩ. Quá trình ấy biến cái không thành cái có, từ chỗ hư vô đem lại sự hữu hình, đó là giây phút thiêng liêng và reo vui của bất cứ cái gì đang sinh nở trong tạo vật.

Dĩ nhiên kết quả của mỗi bức vẽ rất khác nhau. Khách hàng có thể rất hài lòng một cách ngạc nhiên, không ngờ mình được vẽ giống đến thế, có thể ngỡ ngàng nhìn cái hình trong tranh không biết nó có liên quan gì đến mình hay không, hoặc thán phục người nghệ sĩ đã nhìn thấy nơi mình những đường nét rất “hay” và bất ngờ chính mình cũng không biết…Nhưng luôn luôn giây phút cầm lấy tác phẩm từ tay người họa sĩ trao cho mà biết rằng từ nay mình là sở hữu chủ, người nhận thấy sung sướng và vinh hạnh, vì mình đang có trong tay một tác phẩm làm bằng tài năng và sáng tạo mà mình vừa được chứng kiến ngay tại chỗ, hơn thế nữa, mình có góp phần vào. Bức tranh thành một giá trị sống động trong tay ta. Bây giờ sẽ không có một ý niệm nào về số tiền mình đã bỏ ra để có bức vẽ này là đắt hay rẻ. Sự sáng tạo ấy và tiền bạc là hai cái không đi đôi với nhau, sự trị giá chỉ là một giao ước tạm.

Lộc muốn có một bức vẽ chân dung kể kỷ niệm. Chúng tôi hỏi chuyện mấy họa sĩ Việt Nam đang bày giá bút tại đây, các anh em đó đều vui vẻ gặp đồng hương, và hỏi ngay: “Các anh từ Mỹ đến à?” Hàng ngày gặp gỡ bao nhiêu là người tứ xứ, họ rất nhạy bén trong nhận xét. Khi nghe Lộc có ý tìm một họa sĩ vẽ chân dung thật giống, anh bạn họa sĩ Việt Nam không ngần ngại chỉ ngay một người đàn bà  Á Đông đang lui cui vẽ tranh gần đấy: “ Chị Kurita kìa. Chị ấy là người Nhật, vẽ chân dung tài lắm đó.”

Kurita trạc tuổi ngoài ba mươi, là một người đàn bà nhu mì và rất lễ độ theo lối Nhật Bản, mặc dù cung cách cũng bụi đời giống như hầu hết nghệ sĩ hành nghề tại đây: một cái quần jean bạc mầu, một cái áo thun màu đen, tiếp chuyện với khách khi thì bằng tiếng Pháp, khi tiếng Anh, gặp đồng hương thì lại nói tiếng Nhật. Khi vẽ tranh, Kurita biến thành một người khác. Sau khi gài mảnh croquis lên giá vẽ và mời Lộc ngồi trên cái ghế xếp cách mình độ vài thước, cô ta đứng đối diện vừa với khung giấy trắng vừa với người mẫu và lập tức đi vào một trạng thái như là nhập định của các thiền sư. Thế giới đông đúc ồn ào chung quanh hình như không còn ảnh hưởng gì đến cô ta nữa. Thần thái của cô ta giờ đây chia làm hai rõ rệt: khi quay qua nhìn người mẫu đôi mắt cô mở to gần như hết cỡ, giống như ống kính phải mở tối đa khi chụp ảnh ở một nơi thiếu ánh sáng, các tia mắt trở nên sáng rực chiếu thẳng và úp chụp lên người mẫu lúc bấy giờ đang ngồi thụ động như một con mồi đã mất khả năng tự vệ. Trong mấy giây ấy, khuôn mặt cô ta trở thành khác lạ hẳn, cả sự sống ngưng đọng tập trung, đầy vẻ chủ động ngất ngây của một con thú đã quyết định phóng tới vồ mồi. Nhưng khi quay qua với giá vẽ đưa cây bút bắt đầu vờn trên mặt giấy thì vụt một cái nét mặt cô lại trở về vẻ bình thường, hình như mấy giây dữ dội vừa qua là cái không hề có. Bây giờ đến sự bí mật của bàn tay, cô vờn vẽ và hình của Lộc tượng thành dần dần, một cách như là huyền bí phù phép. Hai trạng thái ấy luân phiên xen kẽ nhau khi cô đang làm việc. Suốt bốn mươi phút ngồi làm mẫu, Lộc quan sát cô mà thì giờ trôi qua không hay, vì cái vẻ linh động đến lạ kỳ trong mỗi giây phút mà cô sáng tác. Bức vẽ quả nhiên rất đẹp, không những giống về đường nét, mà cái thần của con người cô thể hiện cũng rất giỏi.

Họa sĩ người Nhật Kurita đang vẽ chân dung tác giả       

Đã quá trưa, say sưa theo dõi mấy người họa sĩ vẽ vời, thì giờ trôi qua không hay. Trong khu vẽ có rất nhiều chỗ ăn uống, hoặc cửa hiệu, hoặc ở chỗ trống có che bạt, có bồi của các nhà hàng mang thức ăn ra tận nơi, giống như cảnh ăn uống nơi một số nhà lồng chợ ở Việt Nam. Nhưng chúng tôi không ăn ở đó mà men theo một con đường nhỏ để vào một nhà hàng ăn nằm trên sườn đồi quay lưng với khu vẽ, nhìn bao quát xuống toàn cảnh Paris. Đi suốt mấy tiếng đồng hồ dưới nắng xem tranh và xem vẽ tranh, bây giờ ngồi thoải mái dưới mái hiên nhà hàng, uống một hơi hết ly bia, phóng tầm mắt ra xa, thấy tâm thần như dần dần xả ra khỏi một cơn lên đồng. Cái vui vẫn còn đọng nhưng cơn xuất thần đã qua, nhận thức trở về với thực tại. Bia là thật, thịt và bánh mì là thật, cảm giác thư giãn là thật, và Paris đang trải dài dưới kia, chỗ này là tháp Eiffel, chỗ kia là cổng Khải Hoàn, và tiếp tục lan xa mãi. Ngày hôm nay tôi trải qua một kinh nghiệm trước đây tôi chưa gặp. Tôi đã đi lạc vào một vương quốc lạ, bầu không khí trong đó có khả năng đánh thức một con người khác nơi tôi bấy lâu yên ngủ, hoặc đã phù phép để tôi lẫn lộn cả âm dương. Ai cũng biết người ta không chỉ sống vì bánh mì, ngoài chuyện áo cơm còn nhiều chuyện khác, nhưng những “chuyện khác” đó là gì thì câu trả lời thật mông lung vô tận. Hãy đến đây mà học lấy một kinh nghiệm, mà cảm nghiệm bằng chính bản thân mình thế nào là cái yêu ma của sáng tạo nghệ thuật. Người ta có thể dựng nên vô số thế giới tưởng tượng để sống những giây phút xuất thần, nhưng hạnh phúc nhất là nhiễm được không khí sáng tạo nghệ thuật. Nó vẫn nằm trong đời thường mà vượt lên trên đời thường, nó vẫn dính tới áo cơm mà lại ở bên kia chuyện áo cơm. Đó là một cõi nhân sinh đặc biệt. Và ở Paris đó là đồi Montmartre.

(Theo dự định của tác giả lúc viết -1997- thì bài chưa chấm dứt ở đây. Nhưng sau đó vì bận nhiều việc, đành để bài viết dang dở). 
  
 Thư của thân hữu: 

Bác Minh thân mến,


Cháu xem trang web Diễn đàn thế kỷ thì cháu phát hiện "Nét Xuân Sơn" của bác! Cháu đã nhìn thấy được nhiều hình ảnh rất hào hoa phong nhã của bác Minh, vui lắm.

 Và cháu nhớ ra trong tiểu thuyết "Băn Khoăn" của Khái Hưng có trích dẫn câu Kiều "Làn thu thủy, nét xuân sơn, Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh". 
 

Aki Tanaka 田中 あき