Hiện nay có lẽ không có một người nào trong giới văn nghệ
trước đây ở miền Nam –và có lẽ cả nước- được yêu mến như Bùi Giáng. Những ai
từng sống trong không khí văn nghệ ấy, bây giờ sau khi trải qua thực sự một cuộc
bể dâu, dù ở trong nước hay ra nước ngoài đều nhớ tới anh như một đám xanh tươi
duy nhất còn sót lại giữa một vùng đã bị sa mạc hóa cằn khô. Có điều lạ là
trong những người yêu mến và kính phục Bùi Giáng ấy không ít người chưa từng
đọc thơ hoặc bất cứ thứ gì anh viết hoặc đã đọc nhưng vị tất đã hiểu. Không
cần. Anh có một ma lực tự nhiên của đấng tài hoa, và ảnh hưởng của anh
trong cõi tinh thần của một số đông người là có thực.
Bùi Giáng và Phạm Xuân Đài tại "vườn cây", Sài Gòn 1992
Cuộc
sống của anh tại Sài Gòn hiện nay là của một
cuồng sĩ, khi thì thu mình trong túp lều của anh tại một khu vườn bên
Gia Định, khi thì lang thang vô định trong cơn điên. Những cơn điên như là dưỡng
chất cho cuộc sống và đặc tính của anh, nó làm cho anh bùng cháy lên, phát
tiết một cách thê thảm những gì có trong anh, sống với anh, là chính anh, mà
anh không nói ra được. Ngôn ngữ đời thường bất lực. Chỉ có thơ và những cơn
điên. Thơ Bùi Giáng tung hoành bên trên lề thói thi ca, cũng như ngôn ngữ và cử
chỉ điên khùng vượt ra khỏi khung khổ của cuộc sống xã hội. Bây giờ anh ít làm
thơ lắm, còn các cơn điên thì viếng anh gần như định kỳ. Những lúc ấy anh đi
nhiều nơi, nhưng thường xuất hiện vùng chợ Trương Minh Giảng (chỗ Đại Học Vạn
Hạnh là nơi ngày xưa anh từng trú ngụ), đứng giữa đường vung tay điều khiển xe
cộ, cử chỉ rất linh động, đặc biệt là đôi mắt sáng quắc bừng bừng. Anh đang thể
hiện một năng lực nào đấy đang đầy ắp trong người anh. Có khi anh múa may trong
một lớp áo lòe loẹt, động tác mạnh mẽ chính xác gần như múa võ, miệng hò hét
như đang nạt nộ với một đối tượng vô hình đang hiện diện ngay trước mặt mình.
Đêm khuya một hai giờ sáng người ta nghe thấy một người vừa đi vừa tranh luận
với chính mình, lời lẽ khó hiểu, thì ai nấy đều biết đó là Bùi Giáng. Chỉ có
các em nhỏ là im thin thít. Đối với chúng, “ông Bùi Giáng” là ông ba bị thực sự
hiện diện trên cõi đời này. Gầy gò, dơ bẩn, tóc hoa râm có khi dài chấm vai,
quần áo tả tơi, hay múa may la hét, đôi mắt sáng rực một cách ma quái sau cặp
kính trắng, tất cả thành viên các nhà trẻ vùng chợ Trương Minh Giảng đều thất
kinh với hình ảnh ấy. Hình như nhà nào ở khu vực này cũng biết dọa con nít khóc
nhè bằng câu “Ông Bùi Giáng đó, nín đi” và câu dọa có hiệu lực tức thì. Nhưng
nhiều người lớn khi nói câu ấy thì cảm thấy một nỗi xót xa vô hạn, thương cho
một người mà họ biết trí thức và tài hoa, nhưng định mệnh đã buộc anh phải tự
thể hiện một cách dữ dội và khác thường như thế. Chính Bùi Giáng sau những cơn
điên đều kiệt sức vì đã phung phí năng lực quá nhiều, anh nằm im trong một thời
gian, tinh thần tỉnh táo nhưng suy sụp và cảm thấy một nỗi buồn vô bờ bến.
Bùi
Giáng sinh năm 1926, con cháu họ Bùi là một tộc lớn gốc ở Vĩnh Trinh, tỉnh
Quảng Nam. Năm 1945, anh đang ở độ tuổi hai mươi, vừa đậu tú tài, kết thúc thời
kỳ đi học tại Huế. Anh về quê, và trong khung cảnh “lúc kháng chiến xa nhà biệt
ly đời gấm hoa,” anh bắt đầu cuộc đời chăn bò, chăn dê ở khắp các miền núi
rừng, và có lẽ trong chính thời kỳ này anh bắt đầu đi vào thế giới thi ca.
Anh
lùa bò vào đồi sim trái chín
Cho
bò ăn cỏ giữa rừng sim
...
Cây
lá bốn bên song song từng lứa
Sánh
đôi nhau như ứa lệ ngàn ngàn
Hạnh
phúc với trời đất mang mang
Với
bò giữa rừng hoang đương gặm cỏ.
Cuộc
đình chiến năm 1954 là một vận hội đối với anh. Sài Gòn, thủ đô thời ấy, đang
chuyển mình để thành một trung tâm chính trị văn hóa kinh tế lớn, cùng với cuộc
di cư của đồng bào miền Bắc, bao nhiêu tinh hoa của cả miền Nam đang dồn về
đây. Các trường đại học được thành lập, không khí văn hóa khởi sắc trước một
vận hội mới. Bùi Giáng đến Sài Gòn, hòa nhập ngay vào không khí ấy. Sau chín
năm cắt đứt với học vấn đích thực để thả hồn trong đồi sim với bầy bò hoặc sống
“Nỗi lòng Tô Vũ” cạnh bầy dê, giờ đây Bùi Giáng trở lại với chữ nghĩa. Thoạt
đầu, anh đến với Đại Học Văn Khoa, nhưng rồi anh tự học. Anh đọc rộng về triết
học và văn học, thậm chí tự học tiếng Đức để có thể đọc nguyên văn các tác giả
Đức, đi dạy Việt Văn, viết sách giảng luận về văn học (các luận đề văn chương),
về triết học (Tư Tưởng Hiện Đại 1962; Heidegger và Tư Tưởng Hiện Đại I, II –
1963...) dịch sách và viết văn, làm thơ (Mưa Nguồn, Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt
Hột, Màu Hoa Trên Ngàn, xuất bản trong các năm 1962, 63). Nghe nói có thời gian
anh vẽ tranh. Đó là một con người sung mãn sáng tạo. Các bản dịch của anh dù là
triết học hay văn học đều là các sáng tạo đẹp đẽ để nuôi sống được tinh thần
nguyên bản. Trong vòng hai mươi năm (1955-1975) Bùi Giáng đã tạo nên một văn
nghiệp đồ sộ, và cũng trong thời gian ấy, lúc nhặt lúc thưa, khi nặng khi nhẹ,
các cơn điên vẫn đến với anh. Anh không có gia đình.
Từ
sau năm 1975, cuộc sống của Bùi Giáng suy sụp xuống một bực, các cơn điên có vẻ
mạnh và thường xuyên hơn. Trong vòng đùm bọc của bà con, anh được cư ngụ trong
một căn lều nhỏ làm riêng cho anh giữa một khu vườn đầy cây lá. Chỗ ở thích hợp
với anh lạ lùng. Nó như một cái am của ẩn sĩ, như “túp lều lý tưởng” cho một
nhà thơ, lại cũng là nơi nương náu đầy may mắn của một kẻ không vợ không con
không sản nghiệp. Ở đấy anh được yên tĩnh và tự do. Cái góc xanh tươi kín đáo
ấy giữa đất Sài Gòn hỗn độn sau 75 là một món quà đặc biệt mà số phận dành cho
một kẻ tài hoa lận đận nhưng rõ ràng là cũng có phước có phần.
Cái
ông già gầy gò ngoài sáu mươi ấy lấy đâu ra sức lực để trải qua các cơn điên dữ
dội của mình? Đấy là một điều bí ẩn. Đi lang thang hàng chục cây số bất kể nắng
mưa, múa may la hét suốt mấy ngày liền, kẻ lực sĩ chưa chắc đã làm được. Hay là
anh được “tiếp dẫn” một lực nào từ bên ngoài? Nhìn anh lúc giữa “cơn” sẽ thấy
rõ ràng một mãnh lực trào dâng không thể kềm chế, đôi mắt lấp lánh vừa điên dại
vừa thông minh như muốn nói nhiều điều, như đã hiểu thấu nhiều điều. Những giây
phút thăng hoa cực điểm. Giây phút một con người có thể thành thần.
Bây
giờ Bùi Giáng không bao giờ nói về những gì mình đã trước tác. Với anh những
cái đó hình như chỉ có giá trị khi anh đang sáng tạo ra chúng. Xong rồi, quên
rồi. Anh là một khối tinh thần đang chuyển hóa chứ không phải là một tác giả
thỏa mãn với một sự nghiệp. Nay lo tái bản cuốn này, mai được mời thuyết trình
về cuốn kia, anh hoàn toàn chẳng biết một tí gì về những điều như thế. Nếu nói
là nói cái bây giờ, mặc dù đó có thể là điều rất cũ nhưng nó phải đang tươi roi
rói trong tâm thức của anh. Đó là chỗ Bùi Giáng rất khác chúng ta, những “người
phàm,” được hiểu là những con người bám chặt lấy đời sống xã hội với tất cả các
hệ lụy của nó. Anh không có gia đình nên chẳng bận tâm về vợ con; không có của
cải riêng nên chẳng bận tâm chuyện mất còn; không màng tới địa vị danh vọng (dù
là trong văn giới) nên chẳng khổ tâm chuyện hơn thua. Phải chăng như thế anh đã
có được các điều kiện căn bản của một bậc chân tu? Bao nhiêu người thực sự
thoát khỏi tham sân si như anh? Tinh thần, đời sống, văn thơ anh là một khối
không phân biệt, anh đạt đến chỗ nhất quán một cách hồn nhiên. Không biết đó có
phải là trạng thái của các bậc hiền triết thời xưa khi tất cả sự sống là một
nguyên khối chưa đi vào thế giới ý niệm chẻ nhỏ mọi thứ ra khiến xã hội loài
người vừa văn minh vừa điêu đứng? Bùi Giáng hay nói về cõi “lãng đãng phiêu
bồng,” phải chăng muốn diễn đạt một cách tương đối cái chỗ ngọn nguồn ấy? Trong
thơ của anh Bùi Giáng cũng hay dùng hai chữ “cố quận”.
Đất
hoa khóc vĩnh biệt người
Ngàn
cây cố quận đổi lời sương thâu.
Người
đọc dần dần cảm thấy cố quận không còn là một thực thể địa lý của một thời đã
qua mà chính là một vùng tâm thức xa xưa nào đấy trong ý thức tập thể của loài
người. Đây là một hình tượng gợi cảm rất Việt Nam bên cạnh các “tro tàn Hy
Lạp,” “ba người con gái chiêm bao ở bờ cỏ Phi Châu” v.v... rất tân kỳ của anh.
Cố quận ở nẻo mù khơi nào? Có phải như Huy Cận đã viết:
Tâm
tình một nẻo quê chung
Người
về cố quận muôn trùng ta đi.
nẻo
quê chung, cố quận, luôn luôn là một nỗi
niềm trong thâm sâu mỗi chúng ta?
Có
lẽ vì tinh thần không vương hệ lụy, thơ của Bùi Giáng tràn đầy một loại ngôn
ngữ tài hoa, bình dị, táo bạo, bất ngờ. Đôi khi như là lời lẽ dân gian nhưng
mang tính chất cực kỳ bác học. Đôi khi như một lời văng tục nhưng lại cực kỳ
tài hoa. Và nhất là không theo một đường mòn nào cả. Mỗi câu thơ Bùi Giáng là
một lối lạ mới phá nhưng luôn luôn mang đầy đủ bản sắc của anh. Trong tâm thức
lãng đãng phiêu bồng, anh nói ra những ngữ, những điệu thuộc về thế giới của
anh. Anh xa lạ với những diễn dịch của trí tuệ, lý luận chẻ sợi tóc làm tư của
cung cách học giả. Lời thơ của anh lắm khi kỳ lạ đối với chúng ta, nhưng chúng
ta luôn luôn thích thú với sự tập hợp chữ nghĩa ấy, vì thấy nó “hay”, gần giống
như khi đọc âm chữ Hán một bài thơ Đường, có khi không hiểu hết nghĩa nhưng tâm
hồn vẫn bàng bạc một nỗi cảm hoài. Có thể thơ Bùi Giáng nói được đôi điều rất
chân thật với tâm hồn ta, và ta được hưởng ít giây phút sung sướng phiêu bồng
mà hầu hết chúng ta đã đánh mất, đã rời quá xa trong cuộc sống đầy phân chia
đến chỗ cằn cỗi này. Ta có thể chia sẻ chút nào chăng trong các câu thơ Bùi
Giáng viết đã lâu rồi để tự giới thiệu mình:
Hỏi
tên rằng biển xanh dâu
Hỏi
quê rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi
tên rằng một hai ba
Đếm
là diệu tưởng, đo là nghi tâm.
Ngày
nay, một cách đùa cợt cho mình là đười ươi, kiểu cách khác hẳn xưa, nhưng điều
anh muốn nói hình như không khác:
Hoặc
rằng người cũng là tôi
Hay
là tôi cũng là tôi như người
Ấy
rằng tinh thể đười ươi
Lời
rằng quyết tuyệt và tươi vui và
Ấy
rằng một cũng là ba
Là
hai mai một mốt là hôm nay...
Bùi
Giáng chịu ảnh hưởng sâu đậm của Nguyễn Du và truyện Kiều. Nguyễn Du và truyện
Kiều đã hóa thân vào anh. Ngôn ngữ
Nguyễn Du đã biến thành ngôn ngữ của anh tự nhiên như thức ăn biến thành sự
sống của sinh vật. Anh gọi Terre Des
Hommes của Saint Exupéry là Cõi Người
Ta, tài tình đến sửng sốt nhưng lại
tự nhiên như dùng một tiếng Việt vốn có từ nghìn xưa. Không phải là anh “lẩy
Kiều” mà là tạo ra một “ngôn ngữ Kiều.” Khắp mọi nơi trong thơ anh, ngôn ngữ ấy
luôn luôn lãng đãng như gần như xa:
Chiêm
bao hội thoại ngân dài
Ý
trong tờ mộng nhớ ngày Việt Nam
Trăng
Gò Vấp sương Đa Kao
Huệ
lan sực nức niềm khao khát chờ
Tưởng
bây giờ là bao giờ
Sát
na niệm tưởng chép thơ tặng người...
Dấu
bèo phong vận nguy nga
Sống
phơi trường mộng đầu hoa cuối cành
Dập
dìu quân nhạc đại doanh
Ngàn
thu rớt hột thập thành trở cơn.
Về
sau chẳng biết vân mồng
Ra
sao thế nọ phiêu bồng thế kia...
Gần
đây một hôm đang trò chuyện với vài người bạn trong khu vườn cây, đột nhiên anh
la lớn:
“Nguyễn
Du đâu phải như Trần Trọng Kim ‘phân tích’, vẽ ra cuộc đời Kiều để nhằm gởi gắm
tâm sự này nọ của mình! Nguyễn Du khác hơn nhiều, không phải như thế, không
phải như thế!”
Tuy
anh không nói rõ về Nguyễn Du là như thế nào –thời gian sau này ít khi anh nói
mọi điều một cách khúc chiết- nhưng qua mạch câu chuyện cùng là nhìn anh và
nghe anh trong lúc ấy, người đối diện phải hiểu rằng theo anh, Nguyễn Du đâu có
bận tâm về những chuyện biện minh cho mình về chuyện thị phi ở đời như trung
với triều đại hay làm quan với triều đại khác, Nguyễn Du vượt xa cao hơn những
cái đó, muốn trình với đời nỗi đau khổ
của con người trong thiên thu. Nỗi đau như là bản chất vĩnh viễn của cuộc
sống, của vô minh nhưng được miêu tả trong thân phận một con người và một hoàn
cảnh lịch sử xã hội cụ thể. Cũng cụ thể như những cảnh sinh, lão, bệnh, tử mà
thái tử Tất Đạt Đa chứng kiến trong những lần du hành của mình để làm khởi điểm
cho một chứng nghiệm cứu đời vĩ đại. Rõ ràng tác phẩm Nguyễn Du cũng là một
phơi bày như thế, một đánh động thê thiết đầy nhân bản về thân phận con người,
đồng thời cũng hé lộ cho thấy khả năng đầy lạc quan của nó. (Tìm cách diễn dịch
Bùi Giáng như thế có thể là... liều mạng, nhưng biết sao, đành phải cố gắng
“hiểu” anh với khả năng trí óc và ngôn ngữ hạn chế đời thường của mình thôi).
Người
đọc Bùi Giáng trước năm 1975 tất nhiên rất quen thuộc với các “nhân vật nữ” của
anh: Kim Cương, Marilyn Monroe, Phùng Khánh..., toàn là những nhân vật có thật
của đương thời. Tuy thật nhưng họ hiện diện trong văn thơ anh, như một hư cấu,
như một tượng trưng. Tuy được nhắc đến lúc nào cũng như với chút bông đùa, cái
mà họ tượng trưng lại vô cùng nghiêm trang: mẫu thân, mẹ. Phải chăng Bùi Giáng
muốn nhắc đến cái nguyên lý sinh sôi và êm dịu –yếu tố Nữ- vốn có trong trời
đất qua tên những người đàn bà quen thuộc nổi tiếng ấy? Nhưng đây là thuộc phạm
vi tư tưởng. Từ sau năm 1975 thơ anh có nhắc đến một người đàn bà khác nhưng
với một cung cách khác hẳn. Không bông đùa mà thân mật. Không tượng trưng mà
đầy cảm mến. Và vẫn bàng bạc một tâm tư sùng bái như trước kia.
Tâm
tùy thị hiện sát na
Căn
do Hoàng thị đầu hoa Chiên Đàn
Cội
trồng ánh ngọc cưu mang
Tờ
rung Hoa Tạng dư vang vô ngần.
Hoàng
thị... Đó là một người có thật, trong họ hàng bên ngoại mà Bùi Giáng gọi bằng
dì (nhưng tuổi nhỏ hơn Bùi Giáng ít nhất một giáp). Cũng vốn là giòng dõi thi
văn, người dì từ lâu đã lấy làm khâm phục ông cháu tài hoa họ Bùi, và nhà thơ
của chúng ta, trong những cơn vật vã sau 1975, luôn luôn nhắc đến người dì một
cách trìu mến. Đây lại là một “nhân vật nữ” nữa của Bùi Giáng, nhưng nhờ sự gần
gũi họ hàng, nhờ sự chăm nom thăm hỏi từ xa của người dì, nhân vật nữ này trong
thơ Bùi Giáng không thăng hoa để thành một tượng trưng của ý niệm triết học mà
lại thành một tình thương mến pha nhiều màu sắc trân trọng nặng tính chất đời
thường.
Giữ
ngọc gìn vàng trân trọng chút
Nghìn
thu cổ lục sẽ mai sau
Hoàng
Trang Thy Thỵ còn vang mãi
Cùng
điểm quần thoa điểm điểm màu
Ân lộc nghìn kho lả lướt chào
Chùm chùm xuân sắc hộ xuân trao
Hồ Hương Đoàn Điểm Thanh Quan
huyện
Cùng xiết bao quần cân quắc cao.
...
Rõ ràng phong cách thơ Bùi Giáng bỗng
chững chạc lại trước dì Trang. Hình như đã lâu lắm thơ anh phóng túng như một
chàng đãng tử không nhà, bỗng trở nên lễ giáo như một thời nào trẻ trung chàng
còn đang vòng kèm cặp của nghiêm đường. Người dì đã làm nhà thơ nhớ lại nếp
xưa? Ta hãy đọc bài Hoàng Hoa Giữa Phố mà tác giả làm để riêng tặng dì Trang,
để thấy thêm một chút phong cách xưa của anh:
(Màu con mắt bên mùa xuân xiêu đổ
Ở bên kia nhìn ngó lại bên này
Gió lắt lay bốn phương về dồn tụ
Bụi thu mờ ai phủi với hai tay)
Hoàng Hoa phố chợ niệm tình
Chép câu ủy tạ chưa đành bởi đâu
Hoàng Hoa Phố Thị hương màu
Đi thiêm thiếp cõi mai sau lạ
lùng
Hoàng hoa tinh thể não nùng
Từ mai hậu với vô cùng Hôm Nay
(Kính tặng Dì
Trang)
Và bài Tưởng Niệm, cảm hứng từ một câu
thơ của dì Trang:
“Mừng mãi chưa quên nỗi bẽ bàng”
(Hoàng Trang Thị)
Chim xa cất cánh bay vù
Nhớ Lâm Tuyền Mộng đất phù du hoa
(Hồi sinh hồng lệ trao quà
Từ bình nguyên rộng lại nhà thăm
nhau)
(Em về mấy thế kỷ sau)
Ngồi bên gốc cây
Ngủ trên ngọn sóng
Đi giữa trời mây
Tần ngần nghe ngóng
(Buồn vui như thể thân mình
Ai chia nửa máu ai giành nửa
xương)
Cũng trong khu vườn ấy, một lần Bùi
Giáng kể:
“Khi ta còn nhỏ, khoảng bốn năm tuổi,
mỗi khi mẹ đi vắng, ta nhớ ghê lắm, ngồi một mình đầu hè trông ngóng mẹ về.
Nhưng khi mẹ ta về, bà không ngó tới ta, mà chạy thẳng vào nhà ôm lấy thằng em
của ta!...”
Trong Bùi Giáng, niềm khát khao Mẹ không
lúc nào vơi, dù là lúc còn thơ hay khi tóc đã bạc. Dù niềm khao khát có thể
thăng hoa thành nguyên lý Mẹ phổ quát, nhưng trong đời sống của anh lúc nào
cũng cần có những “mẫu thân” nâng đỡ suốt đường đi. Dù các mẫu thân ấy có thực
một cách hư cấu hay hư cấu một cách rất thực, thì vẫn là một niềm an ủi êm dịu
cho tâm hồn dằng dặc khao khát vỗ về của nhà thơ.
Bùi Giáng như một ngọn lửa cháy liên tục
mấy mươi năm nay trong thế giới thơ ca –của anh và của chúng ta. Ngọn lửa có
khi thu lại thành một đốm nhỏ, có khi bùng lên dữ dội, có khi bị gió bão lắt
lay, nhưng vẫn là nguyên một ngọn lửa ấy từ đầu cho đến bây giờ. Anh không bao
giờ tự phủ nhận mình để bắt đầu lại từ đầu –nghĩa là tắt ngọn lửa của mình đi
để thắp lên một ngọn theo kiểu khác hẳn. Anh cũng thoát khỏi các hệ lụy của đời
thường để không lâm vào cảnh lúng túng hoặc đối đầu khi hoàn cảnh hoàn toàn
thay đổi. Ở giữa đời mà quả thực anh không dính dáng với cõi trần. Nếu đừng
hiểu chữ ung dung tự tại một cách quá chặt chẽ thì quả là anh đã đạt tình trạng
ấy, theo kiểu của anh. Trước sau anh nguyên vẹn. Có thi nhân nào của Việt Nam
trải mấy mươi năm qua mà được như anh? Sau tháng Tư-1975, Xuân Diệu, Lưu Trọng
Lư... vào Nam trưng thơ tình của mình ra trong cung cách làm công tác để chứng
tỏ rằng trong chế độ của họ thứ hàng nào cũng được sản xuất cả. Họ đã trưng một
ít hàng-mẫu-không-bao-giờ-bán của một cơ cấu sản xuất toàn là quốc doanh. Quần
chúng miền Nam cảm thấy một bãi khô cằn mênh mông. Giữa sa mạc với những viên
đá đen đúa lăn lóc, Bùi Giáng trở thành một ốc đảo xanh tươi mát rượi, ốc đảo
duy nhất còn lại giữa một miền Nam cháy da sau khi “thằng bán tơ kia dở dói ra”
đủ các trò ma mãnh để đổ vào khuôn tất cả mọi sinh hoạt tinh thần. Anh càng
lang thang, càng lên cơn điên dữ dội, càng điêu linh tàn tạ, nhưng cùng lúc anh
đang đóng vai trò của một sứ đồ tự do, bản thân anh là một bài ca đầy cảm hứng
cho nỗi khát khao tinh thần tự do của xã hội. Anh thành một chỗ tựa cho bạn bè
cũ và một sức mạnh cảm hóa đối với người mới đến. Anh tượng trưng cho sự “ngoài
vòng cương tỏa” mà người văn nghệ chân chính nào cũng thèm muốn. Ngọn lửa của
anh được giữ cháy liên tục là biểu tượng cho một truyền thống tinh thần không
bị đứt. Ngọn lửa ấy không phải cháy do một thứ nhiên liệu trần thế nào nên các
sức mạnh trần thế không dập tắt nó được. Anh như là một loại người nhà trời
xuống để giúp con người ra khỏi được tai họa do chính sự dại dột của nó gây ra.
Anh không có và không cần hào khí của một dũng sĩ rút gươm đương cự với con
chằn tinh gian ác. Nơi anh không có sự phân biệt ta và nó. Chỉ là một khối tinh
thần vật chất lãng đãng phiêu bồng.
Nhưng tất cả chúng ta luôn luôn cần và
biết ơn cái lãng đãng phiêu bồng ấy.
Thủ bút của Bùi Giáng: thơ tặng Phạm Xuân Đài
Saigon
21-6-1992