Tác giả xuất bản, 191 trang, gồm 109 bài thơ của nhà
thơ Trần Mộng Tú và sáu phụ bản màu là tranh của các họa sĩ Thái Tuấn, Nguyễn
Trọng Khôi, Nguyễn Thị Hợp, Nguyễn Đồng và Vũ Thái Hòa. Không ghi giá bán và địa
chỉ liên lạc.
Cuốn thơ trình bày rất đẹp. Tên của tác giả cũng đẹp
và quen thuộc với giới thưởng ngoạn thơ từ nhiều năm qua. Nhìn tên của tập thơ,
bỗng giật mình: đã bốn mươi năm rồi! Có phải đây là một thi sĩ làm thơ dài hơi
nhất Việt Nam (và của thế giới) hay không? Thơ chỉ làm được khi tâm hồn còn mới,
mà Trần Mộng Tú làm thơ một mạch bốn mươi năm, và với đà sáng tác vẫn tiếp tục
như hiện nay, thì cái mốc 40 chỉ là một tổng kết tạm. Nhưng phỏng đoán tương lai
để làm gì? Chúng ta đang đứng trước một thành tựu hiếm có: bốn mươi năm làm thơ
của một thi sĩ.
Người viết bài điểm sách này không theo dõi từ đầu
bước đường làm thơ của Trần Mộng Tú, mà chỉ mới đọc thơ của tác giả về sau này,
tính đến nay chỉ gần bằng nửa thời gian bốn mươi năm thôi, nhưng đã chứng kiến
một cảnh tượng mà tôi nghĩ tác động lớn lao đến suốt đời tác giả, đã tạo nên một
chủ đề rõ rệt cho thơ Trần Mộng Tú, là Chiến Tranh. Đó là một ngày vào năm 1969,
tôi đi viếng đám tang một sĩ quan trẻ mới tử trận, đã gặp một thiếu nữ mặc đồ
đại tang đứng bên bàn thờ, góa phụ của “người đi không về.” Hơn hai mươi năm
sau, khi đến Hoa Kỳ tôi mới được biết người góa phụ rất trẻ ấy là Trần Mộng Tú,
và đồng thời biết mình đã chứng kiến hình ảnh khởi đầu cho một tài năng thi ca,
mà sự tàn nhẫn dữ dội của chiến tranh đã làm bật lên những tiếng gào khóc trong
những vần thơ đầu tiên, và tạo một vết thương không bao giờ lành hẳn trong quãng
đời còn lại.
Từ xưa, đàn ông là kẻ tạo nên chiến tranh, đàn bà là
kẻ than khóc về những mất mát do chiến tranh gây ra. Chinh Phụ Ngâm chỉ mới là
khúc ngâm của người đàn bà có chồng đi chinh chiến thôi, mà nghe ra đã bi thảm
lắm rồi:
Thủa trời đất nổi cơn gió
bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân
chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng
trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi
này?
huống hồ nỗi lòng của người con gái mới sống với
chồng qua một tuần trăng mật đã vĩnh viễn mất
chồng.
Em tặng anh hoa
hồng
chôn trong lòng huyệt
mới
em tặng anh áo
cưới
phủ lên nấm mộ
xanh
Tiếng khóc của người góa phụ tuổi hai mươi này không
gào thét ồn ào, điều này chứng tỏ cái bản lãnh nuốt cay đắng vào trong để kết
tinh thành những giọt nước mắt như ngọc rơi xuống trang
thơ:
Em tặng anh mây
vương
mắt em ngày tháng
hạ
em tặng anh băng
giá
giữa tuổi xuân cuộc
đời
Anh tặng môi không
cười
anh tặng tay không
nắm
anh tặng mắt không
nhìn
một hình hài bất
động
Anh muôn vàn tạ
lỗi
xin hẹn em kiếp
sau
mảnh đạn này em
giữ
làm di vật tìm
nhau.
(Quà tặng trong chiến tranh, tr.
10)
Ngày nay đọc lại những câu thơ của người góa phụ trẻ
khóc chồng như thế chúng ta không khỏi ngạc nhiên về cái cách đối diện với thảm
cảnh khá điềm tĩnh, lời lẽ mặc dù đầy thương đau nhưng không hề rối loạn, đã can
đảm mô tả người chồng với những hình ảnh chết “môi không cười, tay không nắm,
mắt không nhìn”, đã dám loại bỏ lối “than khóc nữ nhi” để nói một lời hò hẹn
vượt thời gian “mảnh đạn này em giữ, làm di vật tìm nhau.” Cung cách ấy báo hiệu
một tâm hồn thanh cao với một tài năng thi ca vượt bậc, đứng vững chãi nhiều năm
về sau.
Liên tiếp trong hai năm 1969 và 1970 thơ của Trần
Mộng Tú không ra khỏi đề tài chiến tranh, điều đó ta hiểu được vì nỗi khổ đau
lớn quá, người con gái ấy chưa thoát ra được. Tâm hồn trong sáng ấy dần dần trở
thành cay đắng khi nhắc đến chiến tranh, nhìn thời cuộc như một màn kịch lừa dối
ngay cả trong những vận động tìm kiếm hòa bình, và nhìn thân phận mình như một
nạn nhân.
Em ngây thơ yêu
anh
mong đất nước thanh
bình
tiễn anh vào lửa
đạn
em còn nấm mộ
xanh
em mất anh vĩnh
viễn
hai ta mất mối
tình
một mình em vướng
lại
trong cái bẫy hòa
bình.
(Cái bẫy hòa bình, tr.
16)
Chiến tranh sẽ còn được nhắc lại trong thơ Trần Mộng
Tú nhiều lần trong thời gian sau này như một ám ảnh không nguôi, như một kẻ thù
truyền kiếp, như một món nợ tác giả vẫn đòi hoài mà không ai trả cả. Tuy thế,
sau biến động 1975, cuộc đời tác giả đã rẽ sang một ngõ khác đầy bất ngờ, để từ
đây cuộc sống sẽ mang lại nhiều điều phong phú cùng với sự trưởng thành của tác
giả về tuổi tác, về kinh nghiệm sống, cũng như về nghệ thuật thơ ca. Chiến
tranh, như thế, là một “khai tấu khúc” cho bản trường ca mà tác giả đã tiếp tục
viết trong suốt 40 năm.
Biến cố 1975 và chuyến di tản sang Mỹ năm ấy là một
cái quật mạnh lên cái yếu đuối của người đàn bà trẻ đơn độc trong cơn loạn lạc.
Chịu đựng nỗi đau của tan lìa khi miền Nam sụp đổ, đối diện và thích ứng với
hoàn cảnh mới tại Mỹ. Khoảng vài tháng sau ngày tháng Tư 75 ấy, Trần Mộng Tú đã
viết:
Hãy tưởng tượng ra
em
ở một căn nhà
lạ
mình em một ngôn
ngữ
mình em một màu
da
mình em một màu
mắt
mình em một lệ
nhòa
...
Hãy tưởng tượng ra
em
ở một vùng đất
mới
em như hoa sầu
đông
khóc mùa xuân không
tới.
Các bài của tập thơ xếp theo thứ tự thời gian sáng
tác khiến chúng ta dễ dõi theo những biến chuyển tâm lý lẫn biến cố trong đời
tác giả. Sau những bỡ ngỡ lúc ban đầu, chúng ta biết được tác giả đã lấy chồng,
có con, và tâm hồn thì vẫn như xưa, luôn luôn rung như một sợi tơ trước cuộc
đời, trước thiên nhiên, và cống hiến cho đời những vần thơ ngày một điêu luyện
hơn, truyền cảm hơn, nhưng luôn luôn vẫn ở trên cái nền tình cảm rất nhu hòa của
một tâm hồn chân thành và đạo đức. Đến đây, dòng sông thi ca đã trôi chảy trên
vùng đồng bằng, bỏ lại đằng sau những thác ghềnh khốc liệt của thời gian năm bảy
năm đầu, người đọc thơ có thể cùng êm ái xuôi theo dòng...
Trần Mộng Tú là người thừa hưởng kết quả của những
phong trào cách tân thơ Việt Nam từ thập niên 1930 cho đến nay, thơ của bà sử
dụng những hình thức vốn đã quen thuộc, hoặc đã trở nên quen thuộc, không gây bở
ngỡ, thậm chí khó chịu cho người đọc như những người đi tiên phong. Nhìn chung
thì Trần Mộng Tú hay làm thơ năm chữ (như những trích dẫn ở trên), bảy chữ
Anh ạ tháng Giêng còn trẻ
lắm
mặt đất rền như bánh chưng
xanh
buổi sáng ngực xuân sương căng
sữa
nhỏ xuống chiều những giọt long
lanh
hay tám chữ
Hàng cây trên cao giơ bàn tay
vẫy
sông chảy hiền hòa bầu trời thật
xanh
núi tình tứ và nàng lên tiếng
gọi
mùa Hạ rất đầy sao thiếu mình
anh.
Đó là những khổ thơ quen thuộc, dễ đọc, dễ cảm, chiếm
đa số bài trong sách. Tác giả cũng hay làm thơ tự do, câu, chữ, vần không hạn
định, sử dụng khi cần để thích hợp cho một tâm trạng nào
đấy
Ôi cuộc chiến đã đi
qua
chúng ta mất
hết
tình yêu
tuổi trẻ
và những ước
mơ
thơ giúp em giữ mãi một điều gì thiêng
liêng
không mất
được
nhưng cũng không tìm lại được bao
giờ.
Có cả thơ văn
xuôi:
Đến một lúc nào đó có thể chúng ta sẽ quên hẳn nhau
làm sao mà giữ mãi được một liên hệ không còn hiện hữu
nữa.
Và một lần duy nhất trong tập thơ này, bài Mùa Thu
Gót Cỏ được trình bày theo một hình thức đặc biệt, các câu hai chữ được xếp theo
một hình đồ riêng trên trang giấy
Mùa thu
mùa thu
mùa thu
lá rơi
lá rơi
sương mù
bàn tay
bàn tay
bàn
tay
mùa thu
mùa thu
ngón gầy
v.v...
Chứng tỏ tác giả nắm được quan niệm cách sắp xếp vị
trí của chữ trong một bài thơ cũng có tác dụng cho việc cảm nhận bài thơ đó. Ví
dụ, nhìn “toàn cảnh” bài thơ hai chữ này, người ta dễ có cảm tưởng như bắt gặp
cái trống trải hiu hắt của bầu trời mùa thu với những cây đứng trơ cành, và
những cụm hai chữ xếp đặt đó đây trên trang giấy gợi hình ảnh những chiếc lá bay
lả tả trong trận gió thu.
Nhìn chung, Trần Mộng Tú khá thoải mái trong việc
chọn hình thức cho thơ của mình. Trải dài bốn mươi năm làm thơ, bà đã theo dõi
khá sát các quan niệm đổi mới hình thức thi ca và đã tự mình cảm nghiệm thế mạnh
của các loại cách tân, ứng dụng thành công một cách tự
nhiên.
Nhưng hình thức không phải là điều tác giả quan tâm
nhiều, cái gây đặc sắc nơi thơ Trần Mộng Tú không phải là thi pháp mà là thi tứ
và ngôn ngữ. Thơ Trần Mộng Tú không cầu kỳ, nhưng người đọc luôn có cảm giác tân
kỳ trên một cái nền tương đối giản dị, có lẽ hơi cổ điển nữa. Ấy là nhờ những ý
thơ lạ, bất ngờ, được chuyên chở bằng những từ ngữ cũng bất
ngờ.
Tôi bắt đầu tháo bỏ
chàng
như tháo đôi hoa ra khỏi
tai
tháo từng
chiếc
từng chiếc
một
hai tai đã khỏa
thân
...
Tôi đi rót cốc
nước
nâng chiếc ly lên
nhìn
thủy tinh
trong suốt
ngửa mặt uống cạn
chàng
ném chiếc ly qua
cửa
tình bay vào không
gian.
“Tháo bỏ” không phải là một chữ lạ, nhưng “tháo bỏ
chàng” thì cả ý cả chữ đều lạ. Đến “hai tai đã khỏa thân” thì... thần sầu, quá
trình trần truồng của... đôi tai giống hệt như của một vũ nữ thoát y, từng
chiếc, từng chiếc một, khác nào từng mảnh, từng mảnh một rơi xuống, để đến tình
trạng trần trụi sau cùng. Đến đoạn sau của bài thơ, cách xếp đặt ý và chữ, từ
“uống cạn chàng” đến câu kết đột ngột “tình bay vào không gian” hầu đã đưa người
đọc đến một tình trạng thống khoái, vì cách giải quyết bất ngờ, mở rộng, tan
loãng thoát ra khỏi mọi gò bó, với hình ảnh “bay vào không gian” đẹp và lãng
mạn.
Có lẽ ở đây ngôn ngữ mới là chính yếu, tự nó làm nên thơ, làm
nên cả ý thơ. Nó không phải là phương tiện để diễn đạt ý nữa, ngôn ngữ trong thơ
tự trình bày chính nó bằng một thẩm mỹ riêng. Khi nói “hai tai đã khỏa thân” thì
cả nhóm từ ngữ ấy làm nên một hình ảnh, một ý độc đáo tinh nghịch, chứ không
phải dùng nó để diễn giải một ý tưởng đã có trước là tai trần trụi vì đã lột đi
đôi bông.
Đọc thơ Trần Mộng Tú ta có thể gặp nhiều bất ngờ như
thế. Trong bài Hành Tây Bắc, tác giả kể sau bao năm xa cách Việt Nam, người về
thăm cảm thấy “lạ người, lạ tiếng, chân lạ đất”. Thật là một câu cực tả cảm giác
bơ vơ khi đứng trên chính quê hương mình. Chẳng có gì là sáng tạo cầu kỳ cả,
nhưng sau lạ người, lạ tiếng lại thêm
“chân lạ đất” nữa thì có thể khiến ta rùng mình cho những ngăn cách do hoàn cảnh
lịch sử, chính trị, xã hội gây ra nơi một con người đi lưu vong. Người viết nghị
luận có thể cần một bài nhiều ngàn chữ để nói về tình trạng ấy, nhưng người làm
thơ chỉ cần bảy chữ, với điều kiện bảy chữ ấy phải đích thực là... ngôn ngữ
thơ!
Thơ Trần Mộng Tú cũng là nơi bộc lộ trọn vẹn nữ tính
của tác giả. Trời sinh đàn bà và đàn ông là hai mặt âm dương của con người. Đàn
ông cứng rắn, thô bạo, đàn bà mềm yếu, dịu dàng. Đàn ông là chiến tranh, đàn bà
là hòa bình. Đàn ông chinh phục, đàn bà đón chào sự chinh phục. Những đặc tính
ấy đã quá rõ trong quá trình làm người của nhân loại suốt hàng triệu năm. Nhưng
đặc tính bản năng khác với đặc tính văn hóa. Đặc tính văn hóa của nữ tính thể
hiện khắp mặt đời sống, đem lại sự dịu dàng, che chở, bao bọc với mục đích làm
sinh sôi và bảo tồn sự cho sự sống.
Nét nữ tính đầu tiên và quan trọng nhất nơi người đàn
bà được bộc lộ trong tình yêu. Tất cả vẻ xinh đẹp, quyến rũ, đáng yêu v.v... đều
là những đặc trưng sức mạnh của nữ giới để tạo nên ái tình. Bài thơ Đàn Bà Là
Mặt Trời của Nhã Ca làm cách đây khoảng bốn mươi năm, có
câu:
Hỡi các chị, chúng ta đều đẹp như mặt
trời
tinh khiết như bình minh
vì chúng ta làm ra ái
tình
ra hoa lá và sự sống trên trái
đất
Đó là một người nữ ý thức sâu xa bản chất của nữ
tính, nói thẳng cho mọi người biết mục tiêu tối hậu của cái đẹp nơi người nữ là
gì. Trần Mộng Tú cũng ý thức điều tương tự, nhưng không ra tuyên ngôn, mà phổ
trong thơ, ở nhiều tình huống khác nhau, tính chất đa tình, êm dịu và thiết tha
của nữ tính nơi mình.
Mối tình đầu bị gãy đổ do chiến tranh đã ám ảnh dai
dẳng tâm hồn tác giả. Không quên được, không xóa được, dù thời gian lẫn không
gian đã kéo tác giả ngày càng xa biến cố đau thương
ấy
Anh còn nhớ không
một thời yêu đương
cũ
hàng me già ướt đẫm trong
mưa
những nụ hôn vỉa
hè
tình yêu luân
vũ
...
những bông hồng Đà
Lạt
những chiếc
gai
đến bây giờ vẫn làm tim em rướm
máu
Lòng thủy chung chỉ còn biết tìm hình ảnh xưa trong
những cơn mơ, người con gái yếu mềm rất tội nghiệp giữa nỗi bơ vơ
Mai em về người có lòng rộng
mở
tay bao dung ôm nhẹ chút dư
hương
em bé nhỏ đời cuốn đi trong
gió
trái tim hồng sót lại một hạt
sương
Trong thơ Trần Mộng Tú đại từ ngôi thứ nhất mà tác
giả rất hay dùng, tiếng xưng “em” có một vai trò đặc biệt, làm nên một đặc tính.
Trong tiếng Việt khi đối thoại với người tình, nữ giới ai cũng xưng “em”, nhưng
thơ Trần Mộng Tú lối xưng hô này đã tạo được một cảm xúc đầy trìu mến và tình
tứ. Và không chỉ khi nói chuyện tình yêu, trong rất nhiều trường hợp khác Trần
Mộng Tú vẫn xưng em, có thể là tự nói với mình, có thể trống không vậy thôi
không với một đối tượng rõ rệt nào cả, tiếng “em” vẫn gợi một tình cảm dạt dào
êm dịu. Đại từ JE trong tiếng Pháp, hay I trong tiếng Anh dùng rất tổng quát,
cho cả hai giống phái, đơn thuần là chỉ chủ thể ngôi thứ nhất, không thể nào
mang thêm tính chất tình cảm diễn tả được vai trò và chỗ đứng của Trần Mộng Tú
trong tất cả đối thoại, độc thoại của mình với chữ Em biết bao dễ thương của
ngôn ngữ Việt Nam. Tiếng xưng Em của Trần Mộng Tú đã tạo nên một thi giới riêng
cho tác giả, với nét nhỏ nhẹ, khiêm nhường, đáng yêu đầy nữ tính.
Khi làm một bài thơ về những giọt nước mắt (bài Lệ)
cảm hứng từ một câu thơ của Đạm Quy Hòa Thượng, Trần Mộng Tú
viết:
Giọt lệ em đang
khóc
...
Tình yêu em đang
có
...
Nỗi buồn em đang
mang...
thì rõ ràng không đối thoại với một ai cả ngoài chính
mình, nhưng nếu ta thử thay chữ Em bằng chữ Tôi chẳng hạn, thì bài thơ sẽ trở
nên cứng cỏi, và những điều muốn diễn đạt từ giọt lệ sẽ mất đi những dáng vẻ
tình cảm và sự thiết tha. Cách xưng Em của người nữ Việt Nam bắt nguồn từ một
khung trời văn hóa, trong đó người đàn bà bày tỏ sự nhỏ nhẹ dịu dàng, tự đặt
mình ở vị trí thấp hơn, và đối với đối tượng yêu đương thì “em” mang đầy vẻ tình
tứ nũng nịu, đây chính là một thành tựu của ngôn ngữ cùng cách ứng xử, mà Trần
Mộng Tú là người đã khai thác trọn vẹn trong thơ của
mình.
Trong ba bậc nữ lưu tiền bối Bà Huyện Thanh Quan,
Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương thì chỉ có Hồ Xuân Hương xưng em: “Thân em vừa
trắng lại vừa tròn” hay “Thân em như quả mít trên cây” vừa tình tứ vừa tinh
nghịch. Về điểm này thì Trần Mộng Tú gần gũi Hồ Xuân Hương hơn là bà Huyện Thanh
Quan hay Đoàn Thị Điểm, hai người sau này trang nghiêm quá, chẳng bao giờ xưng
em cả. Cùng lắm khi cần diễn tả nỗi niềm nhớ nhung đôi lứa thì Bà Huyện chỉ nói
“kẻ chốn chương đài, người lữ thứ”, còn nhà thơ họ Đoàn chỉ xưng hô “chàng,
thiếp”.
Nhưng Trần Mộng Tú còn gần gũi Hồ Xuân Hương ở một
điểm tràn đầy nữ tính, là nói về thân xác, chỉ khác Hồ Xuân Hương thì tài tình
và quái ác như một thách thức, còn Trần Mộng Tú thì trang nhã và thiên về ca gợi
vẻ đẹp và sự tình tứ. Thật ra ý thức về sự quyến rũ của thân thể mình đối với
người đàn ông là việc tự nhiên nơi người nữ, gần như một bản năng, giống như một
bông hoa thì phải bay hương và phô sắc thì ong bướm mới biết mà tìm đến.
hai bàn tay em
đỏ
môi em hương nhựa
thông
cổ em thơm mùi
khói
cánh tay em củi
trầm
Nhưng phải giữ mọi chuyện luôn luôn mới mẻ, chính
thân xác hâm nóng tình yêu:
Thân thể em
soi gương đã
cũ
trái đất ôm
mấy chục vòng
quay
Sao
vuốt ve anh
mỗi ngày một
mới
có phải
mỗi ngày
anh đổi
một bàn tay.
Ngọn Nến Muộn Màng là một bài thơ ngợi ca sự dâng
hiến của người nữ đối với người phối ngẫu, cho thấy chẳng bao giờ là muộn màng
cả, khi ngọn nến tình yêu vẫn đỏ rực những đam mê nồng
nàn:
Em đứng thẳng cho anh nhìn vào
mắt
anh vớt hộ em những giọt long
lanh
...
Em đứng nghiêng cho anh nhìn sóng
lượn
đêm màu xanh hay biển tóc em
xanh
...
Em cúi xuống cho anh hôn lên
gáy
kỷ niệm gầy như những chiếc xương
vai
...
Co chân lên cho anh nâng gót
nhỏ
gót chân son nôn nả nhịp xe
đời...
Đọc những câu thơ liên quan đến thân xác như thế,
chúng ta thấy về mặt cảm xúc còn mạnh hơn thơ Hồ Xuân Hương, vì ở đây thân xác
không khi nào cắt đứt với tình cảm. Môi em, cổ em, ngực em, cánh tay em, gót
chân em... không hiện ra như thuần túy là những bộ phận gợi cảm của người nữ mà
luôn luôn với những tâm tình đi kèm để thanh tao hóa thân xác, đồng hóa thân xác
với tình yêu. Đó là nét đặc biệt nơi thơ Trần Mộng Tú, vô cùng tình tứ nhưng
không vương dục tính, mà chỉ cho thấy cái đằm thắm sâu thẳm khi linh hồn thể xác
trộn lẫn vào nhau, để tạo nên một tình yêu đích thực. Và đó là chỗ tuyệt vời của
nữ tính, và người đàn bà không thể sống trọn vẹn chính họ nếu không bộc lộ được
hết đặc tính ấy.
Qua 40 năm làm thơ của Trần Mộng Tú, chúng ta dõi
theo các chứng nghiệm của nhà thơ trước cuộc đời. Thơ không rời sự sống của bà,
thơ được tạo ra từ những đau khổ, những hạnh phúc, từ các rung động của tâm hồn
tác giả trước thiên nhiên, bạn bè, con cái, đất nước... Và chúng ta cũng chứng
kiến các biến chuyển của một tâm hồn không ngừng đối thoại, từ nội tâm ra thế
giới, để tìm cho ra cái lẽ của an vui và đau khổ. Một cách tiệm tiến, nhà thơ đã
dần dần “ngộ” ra lẽ ấy, từ việc nhìn con mình lớn
lên:
Mũi tên con bay vào khoảng
trống
Lòng mẹ rung theo sợi dây
chùng
Nhìn bạn bè rời bỏ cuộc sống, như trường hợp tiễn
biệt Mai Thảo trong bài thơ Về Một Địa Chỉ Mới, tuy đầy thương cảm một người anh
văn nghệ nhưng giọng bình thản như đang đi vào một đề tài triết học bí mật muôn
thuở của con người, là cái chết. Năm 2005, khi làm bài Niềm Thản Nhiên Trong
Vườn, cảm nhận được sự thản nhiên của sự vật trong quá trình sinh ra và hủy
hoại, thì cũng chính tâm của thi sĩ không còn thấy ngạc nhiên. Đến một tuổi nào
đó của cuộc đời, đạt được sự chín muồi của tâm thức, người ta hiểu ra quy luật
của tồn sinh
Tôi mới biết dẫu trong còn
mất
lá vẫn thản nhiên nằm thở dịu
dàng
nếu biết chiều nay có ai cần nhóm
lửa
lá sẽ gom mình hong ấm không
gian.
Và nhận ra tính chất vô thường trong mọi chuyện, một
điều dễ nói nhưng rất khó tự mình cảm nghiệm, nếu không có một sự quan sát cần
mẫn với một cái tâm luôn rộng mở đến những chân trời xa
Giọt lệ em đang
khóc
những hạt châu đang
rơi
những hạt châu không
thật
lăn xuống một đời
người
Em có thật hay
không
giữa
những điều không thật!
Với cái “ngộ” như thế của tác giả, chúng ta tạm khép
lại hành trình bốn mươi năm làm thơ của Trần Mộng Tú. Hành trình của một người
đàn bà Việt Nam, đi ra từ đau khổ của chiến tranh, và trải nghiệm đời mình như
một chứng tích qua một thời gian dài cầm bút làm
thơ.